tag:blogger.com,1999:blog-42552980248413258272024-03-09T22:56:07.059+07:00Thiền Giữa Đời ThườngHành thiền không phải chỉ là ngồi yên một chỗ, dù ở trong tư thế nào nếu tâm thức tỉnh, hay biết tức là đang hành thiềnthiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.comBlogger1580125tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-22855918355462406252020-10-27T21:06:00.002+07:002020-10-27T21:06:51.393+07:00Khi chánh niệm trở nên tự nhiên<p><a href="https://drive.google.com/uc?export=download&id=1Vb0lfOlvyqVUHtRWpuY1mSwkv78jJNlB" style="display:inline-block;background: #208C3D;padding: 10px 15px;color: #fff;border-radius: 4px;cursor:pointer">Tải về máy</a></p>
<iframe src="https://drive.google.com/file/d/1Vb0lfOlvyqVUHtRWpuY1mSwkv78jJNlB/preview" frameborder="0" style="height: 700px; max-height: 80vh;" width="100%"></iframe>thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-85374663500084233702018-10-17T10:49:00.000+07:002019-05-26T20:00:09.418+07:00Giữ gìn các mối quan hệ<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg2sy94I4Z4jqVItI1XwqYI-LOduiTIB-seUKs7utC5freEaDFV9GZB6N83-nZuSV5NhrxvCZdsstFzAwE5UjdJO8LPdwZstDsyuWkBM-89QkqLUEQb546voe_ogk2tOZQo53yjrNziGIo/s1600/4_quy_tac_nhat_dinh_phai_hieu_khi_di_chua_le_phat_871230280.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="333" data-original-width="500" height="213" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg2sy94I4Z4jqVItI1XwqYI-LOduiTIB-seUKs7utC5freEaDFV9GZB6N83-nZuSV5NhrxvCZdsstFzAwE5UjdJO8LPdwZstDsyuWkBM-89QkqLUEQb546voe_ogk2tOZQo53yjrNziGIo/s320/4_quy_tac_nhat_dinh_phai_hieu_khi_di_chua_le_phat_871230280.jpg" width="320" /></a></div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
</div>
Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta biết cách giữ gìn các mối quan hệ đó một cách tốt đẹp, ở đó ta thấy được các quan hệ được Phật dạy đều theo hai chiều rất tinh tế.<br />
<br />
<br />
Bấy giờ, đã đến lúc đức Thế Tôn khoác y – bát lên đường vào thành khất thực, trên đường đi, đức Thế Tôn thấy một chàng thanh niên đang lễ bái, là người con có hiếu nên nghe theo lời dạy của cha trước khi mất, cứ mỗi sáng, sau khi tắm gội xong anh ta ra đường thực hành việc lễ bái sáu phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới. Cuộc gặp gỡ là duyên khởi cho bản kinh Thiện Sanh ra đời.<br />
<br />
<br />
Đây là một bản kinh nguyên thủy, ngắn gọn, ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách thực thi các bổn phận và trách nhiệm của người Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng hơn là Phật dạy cách kiến tạo một xã hội hài hòa, một cuộc sống đầy an lành và hạnh phúc.<br />
<br />
Trong tạng A-hàm, theo bản dịch Việt từ Hán mới nhất của Thượng tọa Tuệ Sỹ thì Kinh Thiện Sanh thuộc No.16, Phần II, Trường A-hàm. Trong tạng Nikaya, theo bản dịch Việt từ Pali của Hòa Thượng Thích Minh Châu, tương đương kinh Thiện Sanh là Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt (Sigàlovàda sutta) thuộc No.31, Trường Bộ Kinh. Bài viết chủ yếu trích từ ấn bản điện tử từ trang nhà Phatviet.com của TT.Tuệ Sỹ, tất cả các đoạn trích đều được đóng mở “.”, phần lễ bái sáu phương, hầu hết lấy nguyên văn trong kinh.<br />
<br />
Tránh bốn việc ác và sáu việc làm hao tổn tài sản<br />
<br />
<br />
Khi Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, dẫn đầu đoàn khất thực với đại chúng hai ngàn năm trăm vị Tỳ-Kheo đi vào thành, đức Thế Tôn thấy một gia chủ tử tên Thiện Sanh đang lễ sáu phương, Ngài hỏi:<br />
<br />
“Vì sao, ngươi vào buổi sáng sớm ra khỏi thành, đi đến khu công viên, với cả người còn ướt đẫm, mà ngươi lại lạy các phương như thế?”<br />
<br />
Thiện Sinh bạch Phật:<br />
<br />
“Khi cha con sắp chết có dặn: “Nếu con muốn lạy, trước hết hãy lạy các phương Đông,Tây, Nam, Bắc, trên và dưới”. Con vâng lời cha dạy không dám chống trái”.<br />
<br />
Phật bảo Thiện Sanh:<br />
<br />
“Này con trai trưởng giả! Quả có cái tên các phương đó chứ không phải không. Nhưng trong pháp Hiền Thánh của ta chẳng phải lễ sáu phương như thế là cung kính đâu”.<br />
<br />
Thiện Sinh thưa:<br />
<br />
“Cúi xin đức Thế Tôn thương dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp Hiền Thánh”.<br />
<br />
Phật bảo Thiện Sinh:<br />
<br />
“Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương”.<br />
<br />
Bốn nghiệp kết mà Phật dạy: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, đây là bốn điều xấu ác mà bất cứ ai cũng nên tránh, hàng ngày đọc báo chúng ta vẫn thường thấy nhan nhãn các tội phạm phạm bốn điều trên: giết người, cướp của… gây cho xã hội những bất an thường nhật. Rõ thấy, những điều mà Phật dạy chẳng có gì khác ngoài những chuyện thực thường ngày ở thế gian.<br />
<br />
Bốn trường hợp ác: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) khiến cho tâm trí mê mờ, dẫn đến những vọng tưởng điên đảo, sân hận, sợ hãi và ngu si… loại tham dục này thì cần phải loại bỏ, loại tham dục thứ hai phục vụ cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp… cho sự học hành, phát triển nhân cách, tinh thông trí tuệ, nâng cao dân trí, sự phồn thịnh xã hội, sự bình an, sự hạnh phúc... thì cần thực hành và phát huy.<br />
<br />
Sáu nghiệp hao tổn tài sản cần tránh:<br />
<br />
1. Đam mê rượu chè.<br />
<br />
2. Cờ bạc.<br />
<br />
3. Phóng đãng.<br />
<br />
4. Đam mê kỹ nhạc.<br />
<br />
5. Kết bạn người ác.<br />
<br />
6. Biếng lười.<br />
<br />
Phật bảo Thiện Sinh:<br />
<br />
“Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả biết rõ bốn kết hành không làm ác theo bốn trường hợp, lại biết sáu nghiệp tổn tài ấy là, này Thiện Sinh, tránh được bốn trường hợp, cúng dường sáu phương, thì đời này tốt đẹp, đời sau tốt đẹp; đời này căn cơ và đời sau căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả báo bậc nhất; sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện”.<br />
<br />
Như vậy, Phật dạy người nào tránh được bốn nghiệp kết, bốn việc ác, sáu nghiệp hao tổn tài sản thì không những đời này đẹp và cả đời sau cũng được hưởng những quả tốt đẹp, đời này có duyên lành và đời sau cũng có duyên lành, trong hiện tại được người ngợi khen, xã hội ngợi khen, gia đình ngợi khen và trên hết phương ấy được an ổn, xã hội ấy được tốt đẹp, không lo sợ…<br />
<br />
“Người nào không làm ác,<br />
<br />
Do tham, hận, sợ, si,<br />
<br />
Thì danh dự càng thêm,<br />
<br />
Như trăng hướng về rằm”.<br />
<br />
Bốn hạng kẻ thù và bốn hạng người đáng thân<br />
<br />
Trong Trung Hoa Kim Cổ Kỳ Nhân có thuật lại tình bạn giữa Bá Nha – Tử Kỳ, một tình bạn đẹp lưu danh muôn thuở. Bá Nha là một vị quan làm đến chức Thượng đại phu, còn Tử kỳ chỉ là một chàng nông dân kém Bá Nha chục tuổi. Nhưng chỉ mỗi Bá Nha hiểu được tiếng đàn của Tử Kỳ, từ đó hai người trở thành tri kỷ, khi nghe tin Tử Kỳ chẳng may qua đời, Bá Nha đã cầm đờn đập mạnh vào tảng đá,cây đờn vỡ tan, sau đó đọc bốn câu thơ:<br />
<br />
“Dao cầm đập nát đau lòng phượng,<br />
<br />
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai?<br />
<br />
Gió xuân bốn mặt, bao bè bạn.<br />
<br />
Muốn tìm tri âm, thật khó thay!”<br />
<br />
Trong cuộc sống ai cũng cần có bạn, tình bạn kiểu Bá Nha – Tử Kỳ thuộc dạng xưa nay hiếm, nhưng cũng cần phải lựa bạn tốt mà chơi, vì nếu “giao du với bạn xấu có sáu lỗi: 1, tìm cách lừa dối; 2, ưa chỗ thầm kín; 3, dụ dỗ vợ người; 4, mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người; 5, xoay tài lợi về mình; 6, ưa phanh phui lỗi người”. Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu chúng ta làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.<br />
<br />
Phật bảo Thiện Sanh.<br />
<br />
“Có bốn hạng kẻ thù mà như người thân, ngươi nên biết. Bốn kẻ ấy là những ai? 1, hạng uý phục; 2, hạng mỹ ngôn; 3, hạng kính thuận; 4, hạng ác hữu.<br />
<br />
[(1) “Hạng úy phục thì thường hay làm bốn việc: một, cho trước đoạt lại sau; hai, cho ít mong trả nhiều; ba, vì sợ gượng làm thân; bốn, vì lợi gượng làm thân.<br />
<br />
(2) “Hạng mỹ ngôn thì thường hay làm bốn việc: một, lành dữ đều chiều theo; hai, gặp hoạn nạn thì xa lánh; ba, ngăn cản những điều hay; bốn, thấy gặp nguy tìm cách đùn đẩy.<br />
<br />
(3) “Hạng kính thuận thì thường làm bốn việc: một, việc trước dối trá; hai, việc sau dối trá; ba, việc hiện dối trá; bốn, thấy có một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt".<br />
<br />
(4) “Hạng bạn ác thì thường làm bốn việc: một, bạn lúc uống rượu; hai, bạn lúc đánh bạc; ba, bạn lúc dâm dật; bốn bạn lúc ca vũ.”<br />
<br />
“Có bốn hạng người thân đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn? Một, ngăn làm việc quấy; hai, thương yêu; ba, giúp đỡ; bốn, đồng sự. Đó là bốn hạng người thân đáng thân cận”.<br />
<br />
1) Này Thiện Sinh, hạng ngăn quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở: thấy người làm ác thì hay ngăn cản, chỉ bày điều chánh trực, có lòng thương tưởng, chỉ đường sinh Thiên. Đó là bốn trường hợp ngăn cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.<br />
<br />
(2) Hạng thương yêu thì thường làm bốn việc: Mừng khi mình được lợi, lo khi mình gặp hại, ngợi khen đức tốt mình, thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản. Đó là bốn điều thương yêu đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.<br />
<br />
(3) Hạng giúp đỡ có bốn việc. Những gì là bốn? Đó là: che chở mình khỏi buông lung, che chở mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở mình khỏi sợ hãi, khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.<br />
<br />
(4) Hạng đồng sự thì thường làm bốn việc: không tiếc thân mạng với bạn, không tiếc của cải với bạn, cứu giúp bạn khỏi sợ hãi, khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.”]<br />
<br />
Lễ bái sáu phương hay cách thức xây dựng một xã hội hạnh phúc<br />
<br />
Sáu phương là gì, tại sao phải lễ bái sáu phương như chàng Thiện Sanh đã làm, anh ta làm vì nghe lời cha mà không hiểu ý nghĩa của việc lễ bái đó. Phật dạy: “Sáu phương là gì? Phương Đông là cha mẹ, phương Nam là sư trưởng, phương Tây là thê thiếp, phương Bắc là bạn bè thân thích, phương trên là các bậc trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn, phương dưới là tôi tớ”. Bài dạy lễ sáu phương là cách mà Phật dạy đạo làm người.<br />
<br />
Đạo hiếu làm con, phận làm cha mẹ.<br />
<br />
Kẻ làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều:<br />
<br />
1. Cung phụng không để thiếu thốn.<br />
<br />
2. Muốn làm gì thưa cha mẹ biết.<br />
<br />
3. Không trái điều cha mẹ làm.<br />
<br />
4. Không trái điều cha mẹ dạy.<br />
<br />
5. Không cản chánh nghiệp mà cha mẹ làm.<br />
<br />
Kẻ làm cha mẹ phải lấy năm điều này chăm sóc con cái:<br />
<br />
1. Ngăn con đừng để làm ác.<br />
<br />
2. Chỉ bày những điều ngay lành.<br />
<br />
3. Thương yêu đến tận xương tủy.<br />
<br />
4. Chọn nơi hôn phối tốt đẹp.<br />
<br />
5. Tùy thời cung cấp đồ cần dùng..<br />
<br />
Này Thiện Sinh, kẻ làm con kính thuận và cung phụng cha mẹ, cha mẹ thương con, bảo bọc cho con thế thì gia đình ấy được hạnh phúc, xã hội bình an, phương ấy được an ổn không có điều lo sợ.<br />
<br />
Đạo nghĩa thầy trò<br />
<br />
Đệ tử cung phụng sư trưởng có năm điều:<br />
<br />
1. Hầu hạ cung cấp điều cần.<br />
<br />
2. Kính lễ cúng dường.<br />
<br />
3. Tôn trọng quí mến.<br />
<br />
4.Thầy có dạy bảo điều gì không trái nghịch.<br />
<br />
5. Thầy có dạy bảo điều gì nhớ kỹ không quên. Kẻ làm đệ tử cần phải thờ kính sư trưởng với năm điều ấy.<br />
<br />
Thầy cũng có năm điều để săn sóc đệ tử:<br />
<br />
1. Tùy thuận pháp mà huấn luyện.<br />
<br />
2. Dạy những điều chưa biết.<br />
<br />
3. Giải nghĩa rành rõ những điều trò hỏi.<br />
<br />
4. Chỉ cho những bạn lành.<br />
<br />
5. Dạy hết những điều mình biết không lẫn tiếc.<br />
<br />
Nếu đệ tử kính thuận, cung kính nghe lời sư trưởng, thầy thì thương trò, chỉ bảo dạy dỗ tận tình cho học trò thì nền giáo dục xã hội ấy phát triển, phương ấy vững bền, an ổn không có điều lo sợ.<br />
<br />
Đạo nghĩa vợ chồng<br />
<br />
Chồng phải có năm điều đối với vợ<br />
<br />
1. Lấy lễ đối đãi nhau.<br />
<br />
2. Oai nghiêm không nghiệt.<br />
<br />
3. Tùy thời cung cấp y, thực.<br />
<br />
4. Tùy thời cho trang sức.<br />
<br />
5. Phó thác việc nhà.<br />
<br />
Vợ cũng phải lấy năm việc cung kính đối với chồng<br />
<br />
<br />
1. Dậy trước.<br />
<br />
2. Ngồi sau.<br />
<br />
3. Nói lời hòa nhã.<br />
<br />
4. Kính nhường tùy thuận.<br />
<br />
5. Đón trước ý chồng.<br />
<br />
“Chồng đối với vợ thương yêu, tôn trọng, vợ đối với chồng cung kính đối đãi nhau, như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.<br />
<br />
Quan hệ bạn bè, tình làng nghĩa xóm<br />
<br />
Người ta phải lấy năm điều thân kính đối với bà con<br />
<br />
1. Chu cấp.<br />
<br />
2. Nói lời hiền hòa.<br />
<br />
3. Giúp ích.<br />
<br />
4. Đồng lợi.<br />
<br />
5. Không khi dối.<br />
<br />
Bà con cũng phải lấy năm điều đối lại<br />
<br />
1. Che chở cho mình khỏi buông lung.<br />
<br />
2. Che chờ cho mình khòi hao tài vì buông lung.<br />
<br />
3. Che chở khỏi sự sợ hải.<br />
<br />
4. Khuyên răn nhau lúc ở chỗ vắng người.<br />
<br />
5. Thường ngợi khen nhau.<br />
<br />
“Tình người, tình làng nghĩa xóm, biết thân kính bà con như vậy thì phương ấy được yên ổn không điều chi lo sợ”.<br />
<br />
Quan hệ chủ tớ, trên dưới<br />
<br />
Này Thiện Sinh, chủ đối với tớ có năm điều để sai bảo<br />
<br />
1. Tùy khả năng mà sai sử.<br />
<br />
2. Tùy thời cho ăn uống.<br />
<br />
3. Phải thời thưởng công lao.<br />
<br />
4. Thuốc thang khi bệnh.<br />
<br />
5. Cho có thời giờ nghỉ ngơi.<br />
<br />
Tôi tớ phải lấy năm điều phụng sự chủ:<br />
<br />
1. Dậy sớm.<br />
<br />
2. Làm việc chu đáo.<br />
<br />
3. Không gian cắp.<br />
<br />
4. Làm việc có lớp lang.<br />
<br />
5. Bảo tồn danh giá chủ.<br />
<br />
“Này Thiện Sinh, nếu chủ đối với tớ được như vậy thì phương ấy được an ổn không điều chi lo sợ”.<br />
<br />
Quan hệ giữa đàn việt với Sa-môn<br />
<br />
Kẻ đàn việt cung phụng hàng Sa-môn với năm điều.<br />
<br />
1. Thân hành từ.<br />
<br />
2. Khẩu hành từ.<br />
<br />
3. Ý hành từ.<br />
<br />
4. Tùy thời cúng thí.<br />
<br />
5. Không đóng cửa khước từ.<br />
<br />
Sa-môn, Bà-la-môn cũng khuyên dạy theo sáu điều:<br />
<br />
1. Ngăn ngừa chớ để làm ác.<br />
<br />
2. Chỉ dạy điều lành.<br />
<br />
3. Khuyên dạy với thiện tâm.<br />
<br />
4. Cho nghe những điều chưa nghe.<br />
<br />
5. Những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ.<br />
<br />
6. Chỉ vẻ con đường sanh thiên.<br />
<br />
“Này Thiện Sinh, nếu đàn việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.<br />
<br />
Bấy giờ Thiện Sinh bạch Phật:<br />
<br />
“Lành thay, bạch Thế Tôn! Thật quá chỗ mong ước của con xưa nay, vượt xa những lời dạy của cha con. Như lật ngửa những gì bị úp xuống; như mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy. Những gì được Như Lai thuyết giảng cũng như thế; bằng vô số phương tiện khai ngộ cho kẻ ngu tối; làm rõ pháp thanh bạch. Phật là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, do đó có thể chỉ bày, hướng dẫn cho đời. Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi xin đức Thế Tôn chấp thuận cho con được làm ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con nguyện không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.”<br />
<br />
Đọc toàn bộ nội dung kinh, một bản kinh ngắn, súc tích, ngôn ngữ Phật dùng rất rõ ràng mà bất cứ ai đọc cũng có thể nắm bắt, lời dạy như luồng sáng mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy, rất thiết thực, căn bản, rất cần cho chúng ta trong ứng xử với các mối quan hệ thường ngày trong cuộc sống.<br />
<br />
Các pháp đều nương với nhau mà tồn tại, cũng vậy, mỗi người trong cuộc sống cũng đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm về một điều gì đó với một ai đó, mỗi một ai đó sẽ là phần còn lại về nghĩa vụ và trách nhiệm của người nào đó, suy ra sẽ nhìn thấy một ma trận ngang dọc, ma trận vuông tròn các quan hệ. Quan hệ cha mẹ, con cái, ai cũng ít nhất một lần làm học trò, ai cũng ít nhất có một người bạn, ai cũng phải làm một việc gì đó để sống… vì vậy cần phải ứng xử sao cho hợp đạo hợp nghĩa, đúng mực để tự bảo vệ bản thân tức là bảo vệ cho gia đình, cho xã hội.<br />
<br />
Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta biết cách giữ gìn các mối quan hệ đó một cách tốt đẹp, ở đó ta thấy được các quan hệ được Phật dạy đều theo hai chiều rất tinh tế, như đời: “đường hai nẻo xuống lên”.<br />
<div>
<br /></div>
thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-6216105853081013562018-08-22T10:52:00.000+07:002018-08-22T10:52:19.290+07:00KINH LỄ BÁI SÁU PHƯƠNG<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhrc5OwWygBFMepHiegSmaqNdP4NKUa19BqpGoEep0FTCCWmgtR5hXN4m1lhXGM1TUk_E9IPhZ7wO17osIv_95IcHC0Do2UgK4aAl3l6ar7HI2t5dEdoNBILeIKFNSADD0x3pXNIPlIvH8/s1600/di-chua-le-phat-dang-huong.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="400" data-original-width="600" height="213" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhrc5OwWygBFMepHiegSmaqNdP4NKUa19BqpGoEep0FTCCWmgtR5hXN4m1lhXGM1TUk_E9IPhZ7wO17osIv_95IcHC0Do2UgK4aAl3l6ar7HI2t5dEdoNBILeIKFNSADD0x3pXNIPlIvH8/s320/di-chua-le-phat-dang-huong.jpg" width="320" /></a></div>
<br />
(Siṅgalovādasutta)<br />
<br />
Tôi nghe như vầy,<br />
<br />
Một thời đức Thế Tôn trú tại chùa Trúc-Lâm gần thành Vương-Xá. Vào buổi sáng Ngài đắp y mang bát đi khất thực. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn trông thấy thanh niên Sin-gá-lá lễ bái sáu phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới. Ngài hỏi, tại sao làm thế?<br />
<br />
Sin-gá-lá trả lời: Khi thân phụ lâm chung, nhắn nhủ phải thường lễ bái sáu phương.<br />
<br />
Ðức Thế Tôn dạy rằng: Cách thức lễ bái sáu phương trong đạo lý thánh hiền không giống như vậy.<br />
<br />
Thanh niên Sin-gá-lá thỉnh cầu đức Phật giảng dạy đạo lý ấy.<br />
<br />
Ðức Phật dạy rằng: Nầy gia chủ,<br />
<br />
Phương đông được hiểu là cha mẹ.<br />
<br />
Phương nam được hiểu là thầy tổ.<br />
<br />
Phương tây được hiểu là vợ chồng.<br />
<br />
Phương bắc được hiểu là bạn bè.<br />
<br />
Phương dưới được hiểu là người giúp việc.<br />
<br />
Phương trên được hiểu là sa-môn.<br />
<br />
Nầy gia chủ, đối với phương đông tức cha mẹ, người con nên làm năm việc: Một là phụng dưỡng cha mẹ. Hai là làm công việc thay cha mẹ. Ba là gìn giữ gia phong. Bốn là khéo quản trị tài sản thừa kế. Năm là tạo phước hồi hướng.<br />
<br />
Ðáp lại, đối với con, cha mẹ nên làm năm việc: Một là ngăn con không làm điều ác. Hai là dạy con làm việc lành. Ba là hướng dẫn nghề nghiệp. Bốn là tác thành gia thất. Năm là trao tài sản thừa kế khi thích hợp.<br />
<br />
Ðó là cách lễ bái phương đông tức đạo nghĩa cha mẹ con cái. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.<br />
<br />
Nầy gia chủ, đối với phương nam tức thầy tổ, người học trò nên làm năm việc: Một là giữ lòng kính trọng. Hai là quan tâm săn sóc. Ba là chăm chỉ học hành. Bốn là đáp ứng khi cần. Năm là hấp thụ những gì được truyền dạy.<br />
<br />
Ðáp lại, đối với trò, thầy nên làm năm việc: Một là dạy trò những chuyên môn của mình. Hai là dùng phương pháp dễ hiểu. Ba là không giấu nghề. Bốn là giới thiệu tiến thân. Năm là bố trí an toàn cho trò.<br />
<br />
Ðó là cách lễ bái phương nam tức đạo nghĩa thầy trò. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.<br />
<br />
Nầy gia chủ, đối với phương tây tức vợ chồng, thì người chồng nên làm năm việc: Một là đối xử hoà ái. Hai là không bạc đãi khinh khi. Ba là một dạ thủy chung. Bốn là giao quyền nội chính. Năm là tùy khả năng mua sắm tư trang cho vợ.<br />
<br />
Ðáp lại, đối với chồng, người vợ nên làm năm việc: Một là quán xuyến công việc gia đình. Hai là cư xử với hai họ một cách đồng đều. Ba là một lòng tiết hạnh. Bốn là gìn giữ tài sản. Năm là cần mẫn trong bổn phận.<br />
<br />
Ðó là cách lễ bái phương tây tức đạo nghĩa vợ chồng. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.<br />
<br />
Nầy gia chủ, đối với phương bắc tức bạn bè nên làm năm việc: Một là rộng rãi. Hai là nhã nhặn. Ba là quan tâm lợi ích của bạn. Bốn là đồng cam cộng khổ. Năm là thành thật.<br />
<br />
Ðáp lại, đối với một bạn tốt, nên làm năm việc: Một là cảnh giác bạn trước những cám dỗ. Hai là giữ hộ tài sản khi bạn sa ngã. Ba là làm nơi nương tựa cho bạn lúc sa cơ. Bốn là không bỏ bạn lúc nguy biến. Năm là cư xử tốt với người thân của bạn.<br />
<br />
Ðó là cách lễ bái phương bắc tức đạo nghĩa bạn bè. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.<br />
<br />
Nầy gia chủ, đối với phương dưới tức người giúp việc thì người chủ nên làm năm việc: Một là không giao việc quá sức. Hai là trả thù lao tương xứng. Ba là chăm sóc khi đau yếu. Bốn là chia sớt món ngon vật lạ.Năm là không bắt làm việc quá giờ.<br />
<br />
Ðáp lại, đối với chủ, người giúp việc nên làm năm việc: Một là thức trước chủ. Hai là ngủ sau chủ. Ba là không lấy những thứ không cho. Bốn là siêng năng làm việc. Năm là giữ tiếng tốt cho chủ.<br />
<br />
Ðó là cách lễ bái phương dưới tức đạo nghĩa chủ tớ. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.<br />
<br />
Nầy gia chủ, đối với phương trên tức sa môn thì người cư sĩ nên làm năm việc: Một là cử chỉ thân thiện. Hai là lời nói thân thiện. Ba là tư tưởng thân thiện. Bốn là luôn mở rộng cửa đón tiếp. Năm là cúng dường tứ sự.<br />
<br />
Ðáp lại, đối với cư sĩ, sa môn nên làm năm việc: Một là hướng dẫn cư sĩ xa điều ác. Hai là hướng dẫn cư sĩ làm việc lành. Ba là luôn cư xử với tâm từ ái. Bốn là giảng giải đạo lý tường tận. Năm là chỉ đường an vui đời sau.<br />
<br />
Ðó là cách lễ bái phương trên tức đạo nghĩa tăng tục. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.<br />
<br />
Nghe đức Thế Tôn dạy như vậy, thanh niên Sin-gá-lá bày tỏ niềm hoan hỷ: Thật vi diệu, bạch đức Thế Tôn, Chánh Pháp được giảng dạy như người lật lên những gì bị úp xuống, phơi bày những gì bị che phủ, chỉ đường cho người lạc lối, đem ánh sáng vào chỗ tối.<br />
<br />
<br />
Con xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng. Xin Ngài nhận biết cho con là đệ tử từ nay cho đến trọn đời.thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-40907713986082966322018-08-03T11:35:00.000+07:002018-08-03T11:35:01.418+07:00Mười thiện nghiệp và mười ác nghiệp<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEihSTz1T_aeosKaaDhePOL1_VViztP9XuEh5wObmMprN96dC7Iz93QY4U3BePh6rkwdiQJn6IoHsB0U4-UzLB5uBI-xCQ4Pu8IR-X3KZJnHH5DpLJsUeFA5FTQ2RQl-I8zgmaoa4RaZo04/s1600/Tu+thien+1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="512" data-original-width="768" height="213" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEihSTz1T_aeosKaaDhePOL1_VViztP9XuEh5wObmMprN96dC7Iz93QY4U3BePh6rkwdiQJn6IoHsB0U4-UzLB5uBI-xCQ4Pu8IR-X3KZJnHH5DpLJsUeFA5FTQ2RQl-I8zgmaoa4RaZo04/s320/Tu+thien+1.jpg" width="320" /></a></div>
Việc thực hiện con đường đi ra khỏi tham, sân, si, luôn luôn được đức Phật quan tâm và khuyến khích chư đệ tử của mình hành trì để từ đó các pháp an lạc được tăng trưởng và các pháp khổ đau được diệt trừ.<br />
<br />
Nếu không khéo hành trì thì không những các khổ đau tăng trưởng mà các thiện pháp cũng bị tiêu trừ. Ðể giới thiệu cho chúng ta có một phương pháp hướng thượng đó, trong kinh Saleyyaka (Trung bộ, kinh số 41), đức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng ta hành mười thiện nghiệp và loại trừ mười ác nghiệp.<br />
<br />
Trong mười thiện nghiệp và mười ác nghiệp, đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy tất cả đều phát xuất từ thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân nghiệp có 3, khẩu nghiệp có 4 và ý nghiệp có 3. Ðể xác chứng lại những lời dạy của Thế Tôn chúng tôi xin tuần tự đi vào nội dung của từng ác nghiệp và thiện nghiệp.<br />
<br />
I. Mười ác nghiệp<br />
<br />
A. Ba ác nghiệp của thân:<br />
<br />
1) Có người sát sanh, tàn nhẫn , tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình.<br />
<br />
2) Người này lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi, không cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy.<br />
<br />
3) Người ấy sống tà hạnh với các dục lạc, liên hệ đến dục tình với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa.<br />
<br />
B. Bốn ác nghiệp của khẩu:<br />
<br />
1) Có người vọng ngữ đến chỗ tập hội, chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì Ông biết". Dầu cho người ấy không biết, người ấy vẫn nói: "Tôi biết"; dầu cho người ấy biết, người ấy vẫn nói: "Tôi không biết"; hay dầu cho người ấy không thấy , người ấy vẫn nói: "Tôi thấy"; hay dầu cho người ấy thấy , người ấy vẫn nói: "Tôi không thấy". Như vậy, lời nói của người ấy trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì.<br />
<br />
2) Và người ấy là người nói "hai lưỡi". Nghe điều gì ở chỗ này, đi đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này, để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy ly gián những kẻ hòa hợp, hay xúi giục những kẻ ly gián, ưa thích phá hoại, vui thích phá hoại, thích thú phá hoại,nói những lời đưa đến phá hoại.<br />
<br />
3) Và người ấy là người nói lời thô ác . Bất cứ lời gì thô ác, tàn ác, khiến người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định, người ấy nói những lời như vậy.<br />
<br />
4) Và người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp,nói những lời phi luật, nói những lời không đáng gìn giữ. Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích.<br />
<br />
C. Ba ác nghiệp của ý:<br />
<br />
1) Có người có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!".<br />
<br />
2) Lại có người có tâm sân, khởi lên hại ý, hại niệm như sau: "Mong rằng những loài hữu tình này bị giết, hay bị tàn sát, hay bị tiêu diệt, hay bị tàn hại, hay mong chúng không còn tồn tại".<br />
<br />
3) Lại có người có tà kiến, có tưởng điên đảo như: "Không có bố thí,không có kết quả của bố thí, không có tế lễ, không có cúng dường, các hành vi thiện ác không có kết quả dị thục,không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, trong đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chính hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau".<br />
<br />
Ðấy là mười ác nghiệp do thân, khẩu và ý tạo tác nếu không đoạn trừ mười ác nghiệp này thì sẽ đem lại khổ đau ngay trong đời sống hiện tại và sau khi thân này kết thúc phải đọa vào trong cõi dữ , ác thú, đọa xứ,địa ngục.Như đức Thế Tôn đã khẳng định: "Do nhân hành phi pháp, phi chánh đạo, có một số lớn loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung phải đọa vào trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục."<br />
<br />
<br />
<br />
II. Mười thiện nghiệp<br />
<br />
A. Ba thiện nghiệp của thân:<br />
<br />
1) Có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ,sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loại hữu tình.<br />
<br />
2) Từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi, không cho người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy.<br />
<br />
3) Từ bỏ sống theo tà hạnh đối với các dục, không liên hệ đến dục tình với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa.<br />
<br />
B. Bốn thiện nghiệp của khẩu:<br />
<br />
1) Có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc,hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì Ông biết". Nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết" , nếu không biết, người ấy nói : "Tôi không biết"; hay nếu không thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy"; nếu thấy,người ấy nói : "Tôi thấy". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ,hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì.<br />
<br />
2) Từ bỏ nói"hai lưỡi", tránh xa nói"hai lưỡi". Nghe điều gì ở chỗ này, không đi nói với những người kia để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, ưa thích hòa hợp, vui thích hòa hợp,thích thú hòa hợp, nói đến những lời đưa đến hòa hợp.<br />
<br />
3) Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, những lời nói nhu hoà, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, người ấy nói những lời như vậy.<br />
<br />
4) Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, người ấy nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi.<br />
<br />
C. Ba thiện nghiệp của ý:<br />
<br />
1) Có người không có tham ái, không tham lam tài vật của kẻ khác, không nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!"<br />
<br />
2) Lại có người không có tâm sân,không có khởi lên hại ý, hại niệm,nghĩ rằng: "Mong rằng những loài hữu tình này sống không thù hận, không oán thù,không nhiễu loạn,được an lạc,lo nghĩ tự thân!"<br />
<br />
3) Người ấy có chánh kiến, không có tư tưởng điên đảo: "Có bố thí, có kết quả của bố thí,có tế lễ, có cúng dường,các hành vi thiện ác có kết qủa dị thục,có đời này,có đời sau, có mẹ,có cha,có các loại hóa sanh,trong đời có các Sa-môn,Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu,sau khi tự tri,tự chứng lại tuyên bố cho đời này và đời sau".<br />
<br />
<br />
<br />
Ðấy là mười thiện nghiệp, nếu như chúng ta thực hiện mười thiện nghiệp này thì không những trong đời sống hiện tại được hạnh phúc an lạc mà sau khi thân này kết thúc sẽ được sanh vào cảnh giới an lành. Như đức Thế Tôn đã tuyên bố: "Do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh đạo, ở đây, một số lớn loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, đời này."<br />
<br />
Trong kinh Tăng Chi Bộ, tập II, Phẩm Nghiệp đạo, đức Thế Tôn khẳng định rằng đối với ác nghiệp này, Tỳ kheo nào thành tựu bốn pháp: tự mình làm, khích lệ người khác làm, chấp nhận làm và tán thán làm, thì sẽ bị rơi vào địa ngục; nếu Tỳ kheo nào thành tựu bốn pháp: tự mình từ bỏ, khích lệ người khác từ bỏ,chấp nhận từ bỏ và tán thán từ bỏ, thì sẽ sanh lên cõi trời.<br />
<br />
Giáo lý duyên khởi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy: "Khi cái này có mặt, cái kia có mặt. Khi cái này không có mặt , cái kia không có mặt". Khi Vô minh xuất hiện thì Ái, Thủ v.v... đều xuất hiện. Khi Vô minh diệt thì Ái, Thủ v.v... cũng theo đó mà diệt.<br />
<br />
Như thế, chúng ta có thể xem mười thiện nghiệp là các nhân tố của vô minh đưa con người đến hố sâu tội lỗi, gây ra khổ đau cho bản thân, cho gia đình và làm rối loạn cho xã hội . Hậu quả của mười ác nghiệp ấy sẽ là:<br />
<br />
Hoặc khổ thọ khốc liệt,<br />
Thân thể bị thương vong.<br />
Hoặc thọ bệnh kịch liệt,<br />
Hay tán loạn ý tán tâm.<br />
Hoặc tai hại từ vua,<br />
Hay bị vu trọng tội.<br />
Bà con phải ly tán.<br />
Tài sản bị nát tan.<br />
Hoặc phòng ốc nhà cửa,<br />
Bị hỏa tai thiêu đốt.<br />
Khi thân hoại mạng chung<br />
Ác tuệ sanh địa ngục. (Pháp cú 138-139-140)<br />
<br />
Khi thấy rõ sự nguy hiểm của mười ác nghiệp, đức Phật khuyên chúng ta nên xuất ly chúng và thực hành mười thiện nghiệp để đem lại an lạc cho tự thân,gia đình và góp phần an lạc cho quê hương và thái bình cho xứ sở.<br />
<br />
Xã hội ta ngày nay đang trên đà phát triển về mọi mặt, kinh tế, chính trị,văn hoá, giáo dục v.v... thế nhưng sự khủng hoảng về tinh thần không phải là ít. Chẳng hạn như nạn tham nhũng, ma túy, rượu chè, cờ bạc, mãi dâm vẫn luôn luôn là vấn đề nóng bỏng cần được giải quyết. Nếu thật sự thấy được sự nguy hiểm của mười ác nghiệp chắc hẳn rằng con người sẽ hành mười thiện nghiệp, vì sự an lạc của đời này và đời sau. Kinh Pháp cú dạy:<br />
<br />
Ý dẫn đầu các pháp,<br />
Ý làm chủ, ý tạo,<br />
Nói lên hay hành động,<br />
Với tâm ý thanh tịnh<br />
An lạc bước theo sau.<br />
Như bóng không rời hình. (Pháp cú:2)<br />
<br />
Làm được như vậy thì các cá nhân sẽ có phần đóng góp ý nghĩa và quan trọng cho sự nghiệp phát triển xã hội ta trong hiện tại.<br />
<br />
HT. Thích Minh Châu<br />
<br />thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-67343908269778960122018-07-20T09:47:00.000+07:002018-07-20T09:47:00.168+07:00 BỒ TÁT LÀ AI? <div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhjrRjBw9s6VG-UYm3GQJIqdHSHnLxD5V0LKmiKJdCcAoG_BoJ3tCbE5JwRKJlZLLelY-CNqkwgoRIMm0rbAJot9X9g2pbwpBO91y-_SqEBMe3tvPYs8Ra9NPpRctdeIxNOV2LL9n1NDzU/s1600/17425973_1261383963981601_8486918078225949759_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="639" data-original-width="960" height="213" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhjrRjBw9s6VG-UYm3GQJIqdHSHnLxD5V0LKmiKJdCcAoG_BoJ3tCbE5JwRKJlZLLelY-CNqkwgoRIMm0rbAJot9X9g2pbwpBO91y-_SqEBMe3tvPYs8Ra9NPpRctdeIxNOV2LL9n1NDzU/s320/17425973_1261383963981601_8486918078225949759_n.jpg" width="320" /></a></div>
BỒ TÁT LÀ AI?<br />
MUỐN THÀNH PHẬT, PHẢI PHÁT NGUYỆN TU HÀNH RA SAO ?<br />
Muốn thành Phật trước hết phải là Bồ Tát, để là Bồ Tát phải có hạnh nguyện trở thành Phật. Đầy đủ 8 yếu tố cực kỳ khó khăn để người đó thành 1 vị Bồ Tát<br />
MỖI VỊ BỒ TÁT (SAU NÀY TRỞ THÀNH PHẬT) ĐỀU CÓ LỊCH SỬ GHI LẠI NƠI SINH, DÒNG DÕI, XUẤT GIA TẠI ĐÂU, THÀNH ĐẠO SAU BAO LÂU…VV. Ngày nay có rất nhiều Bồ Tát do người đời sau dựng nên đề thờ cúng van xin nhưng không có lịch sử và giáo lý truyền dạy. Chỉ có duy nhất giáo lý của Phật hiện tiền: Đức Thích Ca Mâu Ni là pháp tối thượng, đem đến chân lý và giải thoát rốt ráo mà thôi. Mọi người hãy cẩn thận để hiểu cho đúng điều gì ích lợi cho mình mà gắng công tìm hiểu, thực hành theo.<br />
xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx<br />
Có 8 yếu tố để trở thành Bồ Tát: Trong đó có điều rất khó khăn đó là phải gặp được 1 vị Phật còn sống và phát nguyện trước mặt vị Phật hiện tiền này. Vị ấy phải có sự mong muốn mãnh liệt đến độ sẵn sàng đi bộ từ đầu thế giới này đến đầu thế giới kia trên than đỏ để đạt chí nguyện. Quyết tâm dâng hiến mạnh mẽ, kể cả tính mạng mình để đạt quả vị Phật và có tiềm năng trở thành A la Hán giải thoát hoàn toàn.<br />
Khi nào được Đức Phật hiện tiền tiên đoán (hay thọ ký) trở thành một vị Phật trong tương lai thì vị đó mới chính thức trở thành 1 vị Bồ Tát.<br />
Sau đó vị Bồ Tát phải kiện toàn 10 ba la mật để trở thành Phật phải tích lũy nhiều đời, nhiều kiếp, tính theo A tăng kỳ kiếp trái đất và hàng trăm ngàn đại kiếp<br />
Ví dụ về A tăng kỳ kiếp: Phật dạy một tảng đá vuông vức một do tuần (16 cây số ) cứ 100 năm , có một vị Chư Thiên bay xuống lấy tấm lụa quét qua một lượt . Bao giờ tảng đá mòn bằng mặt đất , được gọi là một A TĂNG KỲ .<br />
Đại kiếp trái đất gồm 4 giai đọan Thành- Trụ -Hoại- Không của Trái đất<br />
Nguồn: http://www.budsas.org/…/u-chanh-giac-tong/chanh-giac-03.htm…<br />
và: http://www.thuviennguyenthuy.com/hieu-biet-tron-ven/<br />
xxxxxxxxxxxxxxxxxxx<br />
ẢNH: Xa xưa, Tiền Thân Đức Phật Thích Ca, Lấy Thân Trải Đường Cúng Dường Đức Phật Dipankara (Nhiên Đăng)Prabhapàla và được Phật Nhiên Đăng thọ ký: "Ông hoàng kia là một vị Phật tương lai. Bốn a tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp sau này ông ta sẽ thành Phật tên Cồ-đàm". Ðó là lời của Phật Nhiên Ðăng thọ ký cho ông hoàng Sumedha, sau này trở thành vị Thầy của chúng ta: Phật tổ Thích Ca.thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-72534626197258534032018-07-16T18:47:00.000+07:002018-07-16T18:47:19.996+07:00QUYỀN SỬ DỤNG<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgGFhz0vITu5Jx2RCxp1YoglAb8Zcv6iuRGLFaC4b3Bvmgmj_eb4TIgndx5DMxhau2Dy82Ae-XQqvJXNoA-e4bmLwphmqQMnBDraLbWGtz-JL1Q3lpjZ6kY023i9sAHAJMYl0q9Yclatgo/s1600/13654367_1125300140860953_7324145561532728948_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgGFhz0vITu5Jx2RCxp1YoglAb8Zcv6iuRGLFaC4b3Bvmgmj_eb4TIgndx5DMxhau2Dy82Ae-XQqvJXNoA-e4bmLwphmqQMnBDraLbWGtz-JL1Q3lpjZ6kY023i9sAHAJMYl0q9Yclatgo/s320/13654367_1125300140860953_7324145561532728948_n.jpg" width="320" /></a></div>
Chúng ta có quyền sử dụng thân tâm này, quan hệ này, tài sản này, thời gian này, địa điểm này...vv nhưng không có quyền sở hữu (kiểm soát, khống chế, quyết định tất cả), bởi vì trên hết, tất cả mọi thứ, mọi người, mọi loài đều phải tuân theo quy luật Vô thường sinh diệt và 1 luật nữa không phải dễ thấy, là luật của Nghiệp: Luật nhân quả nghiêm minh!<br />
Vì không có quyền sở hữu nhưng lại khao khát điều khiển, chi phối, nên chúng ta khổ<br />
Học cách sử dụng Quyền Sử Dụng đi thôi, đó chính là sử dụng cho đúng, cho hợp chân lý.<br />
Sử dụng cho điều thiện<br />
Sử dụng để cảm nhận và học hỏi<br />
Sử dụng để biết, không dính mắc và để học buông.thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-71550737257949648882018-07-15T18:54:00.000+07:002018-07-15T18:54:11.593+07:00CÁI CHẾT VÀ CÁI TÔI!<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjOjfGbaTu9kKVeCe0ajSHdRa-7ewfJjuT0DOmcMBgaO9OoExMhtT9Y9o4OO_VQ42UBuFdnK36NGSTJ49hTJkuBfANDb0BwtkTtxNv0LaMDMvVWTmTAhYh5jI80fjwOSn6085ZDaq3YYrk/s1600/1-2297315-lao-hoa-1388095207427.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="780" data-original-width="1500" height="166" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjOjfGbaTu9kKVeCe0ajSHdRa-7ewfJjuT0DOmcMBgaO9OoExMhtT9Y9o4OO_VQ42UBuFdnK36NGSTJ49hTJkuBfANDb0BwtkTtxNv0LaMDMvVWTmTAhYh5jI80fjwOSn6085ZDaq3YYrk/s320/1-2297315-lao-hoa-1388095207427.jpg" width="320" /></a></div>
Trả lời cho những vấn đề nhức nhối:<br />
CÁI CHẾT THỰC SỰ LÀ THẾ NÀO?<br />
LÀM SAO ĐỂ THOÁT KHỎI CÁI CHẾT<br />
VẬY CON NGƯỜI LÀ CÁI GÌ?<br />
BẢN NGÃ- CÁI TÔI<br />
xxxxxxxxxxxxxxxxxxxx<br />
1. TÁI SINH<br />
- Theo đạo Phật, không có đời sống vĩnh viễn trên thiên đàng hay địa ngục. Dù ở cõi chư thiên hạnh phúc thì hết phước cũng lại sinh tử luân hổi. Sinh rồi tử, tử rồi sinh, tái sinh tùy thuộc vào Nghiệp. Đây là Quy luật tự nhiên không do thượng đế hay Đức Phật tạo nên.<br />
- Tái sinh là sự tiếp diễn của đời sống khi kiếp sống hiện tại chấm dứt. Ðời sống không phải chấm dứt hoàn toàn lúc chết mà tiếp diễn tái sinh vào kiếp tiếp sau<br />
- Luồng nghiệp và lòng tham ái khát khao là động lực làm cho đời sống trôi chảy như vậy<br />
- Sự sinh hiện tại do nghiệp tham ái quá khứ đưa đến. Sự bám víu vào đời sống hiện tại sẽ trổ quả là sự tái sinh vị lai. Chính vô minh và tham ái đẩy chúng ta chết là tái sinh ngay.<br />
- Có thể nói chúng ta sống và chết từng khoảnh khắc. Sự sinh và diệt trong đời sống luôn tiếp nối nhau như các ngọn sóng tiếp nối nhau trên đại dương. Đây là tiến trình liên tục, không có một khoảng cách nào ở giữa.<br />
-Trong tiến trình sinh tử không có linh hồn thường còn, bất biến chuyển sinh từ kiếp nầy đến kiếp khác. Đó chỉ là sự làm việc cúa luồng tâm<br />
LUỒNG TÂM<br />
Tâm không phải là một cục hay một khối cứng ngắc, mà là một luồng tư tưởng hay một chuỗi dài những chập tư tưởng sinh diệt. "Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời sống, mỗi chập tư tưởng khi diệt, chuyển tất cả năng lực và những cảm giác thâu nhận cho chập tư tưởng kế tiếp. Mỗi chập tư tưởng mới gồm những tiềm năng do chập tư tưởng trước trao lại ". Một chập tư tưởng sau không hoàn toàn khác chập trước mà cũng không tuyệt đối là giống. Cũng vậy một chúng sinh kiếp này khi chết chuyển tất cả nghiệp lực sang một chúng sinh kiếp tới. Hai chúng sinh này không hẳn là một mà cũng không phải là khác, bởi vì cùng nằm trong một luồng nghiệp, và một luồng tâm.<br />
Tâm là nguồn lực linh động trôi chảy liên tục, chứa đựng tất cả kinh nghiệm ghi nhận trong hiện tại và vô lượng kiếp quá khứ. Khi Ðức Phật đề cập đến chúng sinh hay một cá nhân, là tổng hợp Thân và Tâm, là sự thay đổi liên tục của các động năng, điều nầy rất phù hợp với khoa học ở thế kỷ 20.<br />
CÁI CHẾT THỰC SỰ LÀ THẾ NÀO?<br />
Cái chết chẳng phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một chúng sanh, bởi mặc dầu chập sống cuối cùng đã chấm dứt, nhưng năng lực thúc đẩy chập sống ấy vẫn còn nguyên vẹn. Tâm thức hiện tại khuất đi, để nhường chỗ cho tâm thức mới sanh lên trong một đời sống khác. Sự tái sanh xuất hiện tức khắc, bất kể chỗ nào, như một làn sóng điện được phát ra trong không gian, tức khắc được thâu vào một máy vô tuyến điện.<br />
"Người vừa mới chết và người vừa mới tái sanh không phải cùng một người và cũng không phải hai người khác nhau. Có sự tái sanh nhưng không có "người" tái sanh. Ðây là tánh không trong tái sanh<br />
Phật Giáo nguyên thủy không công nhận rằng tâm thức của người quá vãng phải tạm trú một nơi nào, để chờ lựa chỗ đi luân hồi, lập trường tạm trú 7 ngày, hoặc 49 ngày là trái hẳn với giáo lý của Ðức Phật<br />
Ví dụ như một người sắp chết<br />
- Trong tâm người hấp hối này đã hiện ra một nghiệp tướng (Kamma nimitta) hoặc một biểu tượng thọ mạng (Gati nimitta). Những hiện tượng nghiệp này phát sanh do hành động tốt xấu trong lúc sanh tiền, hoặc tức khắc trước giờ cuối cùng.<br />
- Nghiệp tướng (Kamma nimitta) là những biểu tượng xuất hiện trong tâm thức của người hấp hối vì họ ấn tượng mạnh nhất: ví như thấy một con dao và những thú chết trong trường hợp anh đồ tể; hoặc là thấy bịnh nhân, nếu là một vị y sĩ dễ thương; hoặc là thấy vật sùng bái, nếu là một người mộ đạo,...<br />
- Biểu tượng thọ mạng (gati nimitta) có nghiã là một dấu hiệu của cảnh giới sắp tái sanh vào. Những cảnh tượng hạnh phúc hay khổ não thường hay biểu hiện trên sắc diện của người hấp hối. Khi triệu chứng của kiếp vị lai phát sanh, nếu thấy xấu có thể sửa chữa kịp thời, bằng ảnh hưởng cảm hóa tư tưởng của người sắp chết. Dấu hiệu báo trước những điều sẽ đến cho thọ mạng thường là lửa, rừng núi, vú mẹ, thiên cung, v.v...<br />
"Người vừa mới chết và người vừa mới tái sanh không phải cùng một người và cũng không phải hai người khác nhau. Có sự tái sanh nhưng không có "người" tái sanh. Ðây là tánh không trong tái sanh<br />
Hỏi: Kiếp sau tôi là người khác và không nhớ về những hành động xấu, tốt cúa mình ở kiếp này, thì sao lại phải chịu kết quả của những hành động ở kiếp này:<br />
Đáp: Nếu người kia trong lúc đang ngủ mà đứng dậy đi trên lan can và té xuống đường rồi gãy tay hay gãy chân. Khi nằm trên giường bệnh, ông không còn nhớ gì đến sự đi trên lan can, vừa đi vừa ngủ, nhưng dĩ nhiên, ông phải nhận và biết hậu quả của việc làm ấy.<br />
Với cái chết cũng vậy, khi tái sinh thành 1 người khác, tuy hình thể bề ngoài có biến đổi, nhưng luồng tâm trôi chảy liên tục (citta santati), không bị cái chết làm gián đoạn, vẫn tiếp tục diễn tiến, và mang theo tất cả cảm giác do ngũ quan đã thâu nhận.<br />
Sự quên mất dĩ vãng của mình không gây trở ngại nào cho sự vận hành của định luật Nghiệp Báo. Chính nhờ sự hiểu biết lý nhân quả, đã gieo nhân thì phải gặt quả, lúc nào cũng trong vòng luân hồi, mà người Phật tử cố gắng tu dưỡng tâm tánh mình.<br />
LÀM SAO ĐỂ THOÁT KHỎI CÁI CHẾT<br />
Có thể khắc phục cái chết không? Câu trả lời là - Có thể!<br />
Sở dĩ có chết là bởi vì có sanh. Tình trạng lặp đi lặp lại nầy được gọi là vòng luân hồi sansàra. Nếu vòng quanh những kiếp sinh tồn nầy ngưng lại, chấm dứt, nó chỉ có thể bị cắt đứt ở giai đoạn Vô Minh (Không hiểu biết) và ái Dục (Tham ái) -- Ðó là hai cội rễ của vòng luân hồi mà ta phải tận diệt. Như vậy, nếu tận diệt ái Dục và Vô Minh ắt ta chế ngự "sanh", chinh phục "tử", và vượt ra khỏi vòng luân hồi, thành tựu Niết Bàn.<br />
Cho đến khi, và ngoại trừ khi thành tựu giải thoát ra khỏi thế gian những sự vật được cấu tạo, ta còn phải đối diện với cái chết, trở đi trở lại. Và trên phương diện nầy cũng vậy, vai trò của sự chết rất là rõ ràng. Nếu ai cảm thấy rằng chết là điều không thể chịu đựng, hãy cố gắng chuyên cần khắc phục vòng quay sanh và tử.<br />
VẬY CON NGƯỜI LÀ CÁI GÌ?<br />
Phật giáo cho rằng con người được cấu tạo do hai thanh phần: tinh thần và vật chất (Nàma và Rùpa). Hai thành phần này ở trong trạng luôn thay đổi không ngừng nghỉ:<br />
* Thành phần vật chất (Sắc - Rùpa) bị chi phối bởi 4 yếu tố:<br />
1) Nghiệp (Kamma): kết quả của những hành động trong quá khứ;<br />
2) Tâm (Citta):những thánh phần tinh thần;<br />
3) Nhiệt năng (Utu): yếu tố nhiệt lượng;<br />
4) Chất dinh dưỡng (Ahara): yếu tố dinh dưỡng của thức ăn.<br />
* Thành phần tinh thần (Danh - Nàma) là phần quan trọng nhất của bộ máy con người, gồm có:<br />
1) Thọ hay cảm giác (vedanà);<br />
2) Tưởng hay tri giác (sannà);<br />
3) Hành (Sankhàrà) những sinh hoạt tâm có tác ý;<br />
4) Thức (vinnàna). Nhận thức đối tượng<br />
Bốn loại hiện tượng tinh thần ấy, phối hợp với hiện tượng vật chất ở trên, tạo ra năm uẩn (ngũ uẩn)>>>Con người chính là vật cấu hợp phức tạp ấy.<br />
BẢN NGÃ- CÁI TÔI<br />
"Cái mà chúng ta gọi là 'Bản Ngã', giống như một vật sáng hình thành bởi nhiều đốm sáng liên tục tiếp nối một cách thật nhanh, đến nỗi mắt con người không có khả năng phân biệt thành từng đốm riêng biệt". Cũng như thế ấy, không có một linh hồn trường cữu nằm bên trong sự vật qui ước được gọi là "CÁI TÔI", mà thực tế chỉ là sự kết hợp của Ngủ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức). Chúng ta không thể nói mùi hương của một cái hoa nằm trong cánh hoa, hoặc trong nhụy hoa, hay trong màu hoa, nó nằm trong toàn thể cái hoa. Tương tự như thế, một cá thể được qui định bởi sự phối hợp của năm thành phần nói trên.<br />
Chính cái giáo lý Vô Ngã, Vô Linh Hồn (Anattà) là đặc thù chính yếu của Phật Giáo.thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-75864981846595684602018-07-13T19:07:00.000+07:002018-07-13T19:07:00.208+07:00Vài suy nghĩ về việc Tu<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhuixBTpBbFwD6QwvbYZmiG6Rzti6DJuVnxyQxHeHljCnki5dHdQyug7xqXqTj7A8U6exl0AHg8p6AxMF_p9GRHEGFN_PUAU3aZA0nOjAkTEmHqwOlbJHgbQFc2Y5T2FBQWPfvjZ128_P8/s1600/Beginners-Meditation-Techniques.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1061" data-original-width="1600" height="212" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhuixBTpBbFwD6QwvbYZmiG6Rzti6DJuVnxyQxHeHljCnki5dHdQyug7xqXqTj7A8U6exl0AHg8p6AxMF_p9GRHEGFN_PUAU3aZA0nOjAkTEmHqwOlbJHgbQFc2Y5T2FBQWPfvjZ128_P8/s320/Beginners-Meditation-Techniques.jpg" width="320" /></a></div>
Người ta thấy chúng tôi tu hành, họ hay hỏi tu là gì? để được gì hay tu để thành ai?<br />
Tu để được cái gì thì vẫn còn ham muốn, tâm tham sở hữu cho mình, ☺Tu chính để không còn ham muốn nữa.<br />
☺Tu hành để không còn ý muốn trở thành ai cả!<br />
Tu hành không để gặp Phật mà là để gặp chính mình, gặp chính mình trong mọi ng và gặp mọi ng trong chính mình<br />
➡ Tu mới đầu là hành động, suy nghĩ, nói năng thiện, sau đó là hành động, suy nghĩ, nói năng hợp với Sự Thật tuyệt đối (chân lý cuộc sống luôn luôn thay đổi không ngừng, không thể điều khiển và luôn hướng đến sự trống rỗng không thật)<br />
➡ Tu hành cũng không ở chùa, không ở chợ, cũng chẳng phải ở nhà, tu hành tại thân tâm này, mà 2 thứ đó ở đâu chẳng có, chỉ là ta không thấy mà thôi<br />
➡ Mới đầu tu là sửa những hành động, lời nói từ bất thiện thành thiện<br />
Tiếp theo thì tu chỉ là Biết, khi tâm có tham, sân, si hay từ bi, hỷ, xả cũng chỉ Biết mà thôi. Nếu còn muốn sửa thì sẽ tăng thêm cái bản Ngã tự cao tự đại của mình mà thôi<br />
Để tham khảo, mời quý vị đọc lời Phật Thích Ca thuyết giảng, trong kinh Trung bộ và Trường bộ do hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt.:<br />
hhttp://www.budsas.org/uni/u-kinh-truongbo/truong22.htm<br />
http://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung38.htm<br />
<div>
<br /></div>
thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-2036245662908146072018-07-13T09:28:00.000+07:002018-07-13T09:28:04.025+07:00Lưới Tham<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgnucg8k6RG4Sh1ylBaunj9VSjcmZQtgpMttqS37JmIIMwq4wBpIanJljUBw1-8oQBeYanRm4Ql_rqmGJTdP6sB22RbZaFv4W9sdS329LI4faEJEZ_wU9Xf9CCtatJb63CwACRkDEkqXlY/s1600/6dc6eec7bb71bb7be1cbce7044fa59926900ac3f.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1129" data-original-width="1600" height="225" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgnucg8k6RG4Sh1ylBaunj9VSjcmZQtgpMttqS37JmIIMwq4wBpIanJljUBw1-8oQBeYanRm4Ql_rqmGJTdP6sB22RbZaFv4W9sdS329LI4faEJEZ_wU9Xf9CCtatJb63CwACRkDEkqXlY/s320/6dc6eec7bb71bb7be1cbce7044fa59926900ac3f.jpg" width="320" /></a></div>
Khi chưa thiền: Tham mà không biết, bị tham dẫn dắt để nghĩ, nói, hành động mà không hay<br />
Khi mới thiền: Biết tham nguy hại, mê mờ... nên Tham sự vô Tham.<br />
Khi biết cách thiền: Biết có Tham và Chấp nhận tham vì chỉ có tâm Tham, không có Tôi tham.<br />
Và làm thiện pháp với hiểu biết đó! Sự chấp nhận đó<br />
Thiện pháp = bố thí, giữ giới, hành thiền.thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-36107997324727876112018-07-12T15:07:00.000+07:002018-07-12T15:07:06.843+07:00MỞ RỘNG CỬA TÂM MÌNH - AJAHN BRAHM<div style="text-align: center;">
MỞ RỘNG CỬA TÂM MÌNH </div>
<div style="text-align: center;">
Và Những Mẫu Chuyện Phật Giáo Nói VềHạnh Phúc </div>
<div style="text-align: center;">
Ajahn Brahm </div>
<div style="text-align: center;">
Chơn Quán Trần-ngọc Lợi dịch </div>
<div style="text-align: center;">
-----</div>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgYh0fnBdNct63FrPLEZW46hv40iDeO1kB8uZzu1u5AzJJbUecF8jezMLUudC7Qhtgyro_lYSky7_Asy4UowfO0Ea8tS52U236EHzE7NjmtC_aBSScnirSXlzfps7zHmrAxBSrAD0BwLMM/s1600/opening-door-heart.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgYh0fnBdNct63FrPLEZW46hv40iDeO1kB8uZzu1u5AzJJbUecF8jezMLUudC7Qhtgyro_lYSky7_Asy4UowfO0Ea8tS52U236EHzE7NjmtC_aBSScnirSXlzfps7zHmrAxBSrAD0BwLMM/s1600/opening-door-heart.jpg" /></a></div>
<div style="text-align: center;">
<br /></div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Đời là một câu chuyện đan xen chớ không phải là một chuỗi quan niệm. Tư tưởng là những khái niệm luôn xa rời thực tại. Một câu chuyện với chi tiết chi li và ý nghĩa dồi dào mới đáng gọi là gần với thực tại của cuộc đời. Do đó chúng ta thuật chuyện dễ hơn là lý luận trừu tượng. Và chúng ta thích chuyện trò huyên thuyên là vì vậy.</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Chuyện trong sách này được tôi lượm lặt trong lúc tôi tu theo tông phái tu trong rừng của Phật giáo Theravada là môn phái lớn nhứt tại Thái Lan, Miến Điện (nay là Myanmar), Sri Lanka, Campuchia và Lào. Hiện nay Theravada đang phát triển mạnh bên phương Tây và dưới phương Nam, kể cả Úc châu là nơi mà tôi đang hoằng pháp.</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Tôi thường được hỏi về sự khác biệt giữa các tông phái – Theravada, Mahayana, Vajrayana va Zen (<i style="line-height: 1.5; outline: none;">Xin tạm dịch là Nam Tông hay Nguyên Thủy, Bắc Tông, Kim Cương Thừa và Thiền Zen</i>). Tôi trả lời bằng cách ví tất cả như một thứ bánh có nhiều lớp kem khác nhau. Bên ngoài ta thấy khác và ăn biết khác nhưng mùi vị căn bản vẫn như nhau: vị tự do hay giải thoát. Chỉ có một đạo Phật ngay từ lúc bắt đầu.</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Đức Phật chu du hoằng pháp trên miền Đông Bắc Ấn Độ cách nay hơn 2600 năm – một trăm năm trước Socrates (<i style="line-height: 1.5; outline: none;">Socrates c.569 BC – 399 BC là nhà triết học cổ điển Hy Lạp, được xem như một trong các triết gia sáng lập triết lý phương Tây</i>). Ngài dạy không những Tăng ni mà luôn cả dân thường như nông dân, kẻ quét đường, cả gái lầu xanh. Ngài không phải là một siêu nhơn mà là một bậc giác ngộ từng quán chiếu thâm sâu bản thể của đời sống. Lời dạy của Ngài xuất phát từ tâm Ngài, cái tâm được mở rộng nhờ thiền. Như Ngài từng bảo: “…chính trong thân thể dài một tầm có tưởng, có ý này, Ta tuyên bố thế giới, nguyên nhân của thế giới, sự đoạn tuyệt thế giới và con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới. (<i style="line-height: 1.5; outline: none;">theo một bản dịch của H.T Thích Minh Châu, Rohita Sutta, phẩm các ngoại đạo, Tương Ưng Thiên Tử (S.i.61), tức Devaputta Samyutta, Sutta No. 26 ghi bởi tác giả</i>).</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Giáo pháp của Đức Thế Tôn đặt trọng tâm nơi Tứ Diệu Đế, được sắp xếp theo thứ tự như sau:</div>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
1. Lạc hay Hạnh Phúc</address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
</address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
2. Nguyên nhân của Lạc</address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
</address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
3. Sự vắng mặt của Lạc</address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
</address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
4. Nguyên nhân của sự vắng mặt ấy.</address>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Các mẩu chuyện trong quyển sách này xoay quanh sự thật thứ nhì: Nguyên nhân của Lạc.</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Đức Phật thường giảng dạy bằng tâm ẩn dụ. Bổn sư tôi là Ajahn (Thầy) Chah sống tu trên miền Đông Bắc Thái Lan cũng dạy bằng ẩn dụ. Cứ sau mỗi bài pháp Ngài thường lấy một ví sụ để minh họa và tôi nhớ hầu hết các ẩn dụ Ngài dùng, nhứt là các ẩn dụ ngộ nghĩnh. Hơn thế nữa, chính các ẩn dụ này mới phổ cập được các ý nghĩa thâm áo của con đường dẫn đến Hạnh Phúc. Ẩn dụ là sứ giả truyền đạt lời dạy của Ngài.</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Tôi cũng dùng ẩn dụ để giảng dạy Phật học và thiền ở Úc, Singapore và Mã Lai Á trong hơn 20 năm qua, và tôi cũng xin cống hiến quý đọc giả một số câu chuyện xem như đã nói lên ý nghĩa của nó rồi nên không có ý định dẫn giải thêm. Ngoài ra ý nghĩa của mỗi câu chuyện được hiểu ở nhiều mức độ khác nhau nên chi càng đọc các bạn sẽ càng thấy sự thật thêm rõ ràng hơn.</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Mong quý bạn đọc cũng như quý bạn nghe các câu chuyện về hạnh phúc chân thật kể sau đây thành tựu tâm hoan hỷ. Và rất mong các câu chuyện này giúp quý vị thăng hoa đời mình cũng như đời của nhiều người khác.</div>
<address align="right" style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
<b style="line-height: 1.5; outline: none;">Ajahn Brahm</b></address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
</address>
<address align="right" style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
<i style="line-height: 1.5; outline: none;">Perth, tháng năm 2004.</i></address>
<div align="center" style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
<br /></div>
<div align="center" style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
<span style="-webkit-appearance: none; box-sizing: border-box; color: red; line-height: 1.5; margin: 0px; outline: none; text-overflow: ellipsis;"><span style="-webkit-appearance: none; box-sizing: border-box; font-size: x-small; line-height: 1.5; margin: 0px; outline: none; text-overflow: ellipsis;"><b style="line-height: 1.5; outline: none;">LỜI NGƯỜI DỊCH</b></span></span></div>
<div align="center" style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
<br /></div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
<b style="line-height: 1.5; outline: none;">Ajahn Brahmavamso Mahathera</b> (thường được gọi là <b style="line-height: 1.5; outline: none;">Ajahn Brahm</b>), thế danh Peter Betts, sanh tại Luân Đôn, Anh Quốc, ngày 7 tháng tám 1951. Hiện nay Ngài là sư trụ trì Tự Viện Bodhinyana tọa lạc tại Serpentine, Tây Úc. Ngoài ra, Ngài còn là Giám Đốc tinh thần của Hội Phật giáo Tây Úc (The Buddhist Society of Western Australia), Cố vấn tinh thần của Hội Phật Giáo Victoria (The Buddhist Society of Victoria), Cố vấn tinh thần của hội Phật Giáo Nam Úc (The Buddhist Society of South Australia), Bảo trợ tinh thần Ái Hữu Phật giáo Singapore (The Buddhist Fellowship in Singapore), và Bảo trợ tinh thần của Trung tâm Bodhikusuma tại Sydney (The Bodhikusuma Center in Sydney).</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Ajahn Brahm theo học Phật với Ajahn Chah (1918 -1992), một đại trưởng lão Thái Lan, trong suốt 9 năm tại miền Đông Bắc Thái. Như bổn sư mình, Ajahn Brahm có cuộc sống thanh đạm nhưng trí tuệ cao vời. Lời dạy của Ngài lấy cuộc sống <b style="line-height: 1.5; outline: none;"><i style="line-height: 1.5; outline: none;">“hôm nay và tại đây”</i></b> làm căn bản nên rất dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thực hành. Tu phải tập hay tu phải hành. Quan niệm này được thể hiện rõ ràng trong một trăm lẻ tám câu chuyện – đắng cay có, khôi hài có và sâu sắc cũng có - Ngài kể trong quyển Opening The Door Of Your Heart xuất bản năm 2005 mà tôi xin mạo muội phỏng dịch dưới đây để cống hiến quý bạn đọc.</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Tôi dùng hai chữ “Phỏng dịch”, nhưng thật sự tôi không dám bỏ sót ý chánh nào của tác giả hết. Tôi chỉ mạo muội nói cắt xén những trùng lấp (vì tác giả viết như nói) hoặc thêm chút ít giải thích cho rõ nghĩa hoặc sắp xếp lại một đoạn văn cho suông tai người Việt mình mà thôi. Nhưng dầu sao đi nữa, tôi biết không sao tránh khỏi sơ suất nên kính mong quý bậc thức giả lượng tình tha thứ và chỉ dạy giùm để lần ấn tống sau thêm hoàn chỉnh. Trân trọng đa tạ.</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Tôi thành kính ghi ơn tác giả Ajahn Brahm, người dùng trí tuệ minh sát để viết ra những câu chuyện khai tâm thú vị này làm say mê người đọc trong quyển sách quý giá này của Ngài. Quyển sách này tôi có được nhờ duyên may: Chị Phước Huệ Huỳnh Ngọc Diệp, Rạch Giá rất tâm đắc với sách và mong muốn dịch ra Việt ngữ để ấn tống hầu chia sẻ với độc giả Việt Nam, nên đã trao cho nguyên bản nhân dịp tôi ghé lại Rạch Giá trên đường đi hành hương ở Hà Tiên hồi cuối năm 2009. Chị còn dịch giùm bài thơ của Jonathan Wilson-Fuller trong “Hy vọng quá nhiều”, số 43, bỏ công đọc bản thảo và sửa chính tả. Chân thành cám tạ chị Phước Huệ Huỳnh Ngọc Điệp.</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Tôi xin cám ơn Chơn Quang Trương Nguyệt Thu, người bạn đời và cũng là bạn đạo của tôi, đã đọc bản thảo và đóng góp nhiều ý hay và lời đẹp giúp bản dịch thêm phần lý thú.</div>
<div style="-webkit-appearance: none; -webkit-background-clip: padding; background-clip: padding-box; background-color: white; box-sizing: border-box; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; margin-bottom: 10px; margin-top: 10px; outline: none; padding: 0px; text-overflow: ellipsis;">
Tôi không bao giờ quên được công lao của Ban biên tập và nhất là Ông Bình Anson (đọc bản thảo và dàn trang và cô Nguyễn Thị Tú Anh (thiết kế bìa). Không có các bàn tay khéo léo của quý Thân hữu này, quyển sách đây không thể được ấn tống như ý muốn</div>
<address align="right" style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
<i style="line-height: 1.5; outline: none;">Cẩn ký,</i></address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
</address>
<address align="right" style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
<b style="line-height: 1.5; outline: none;">Chơn Quán Trần-ngọc Lợi</b></address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
</address>
<address align="right" style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
<i style="line-height: 1.5; outline: none;">Chùa Vạn Hạnh,</i></address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
</address>
<address align="right" style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
<i style="line-height: 1.5; outline: none;">Lansing, Michigan, USA</i></address>
<address style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
</address>
<address align="right" style="background-color: white; color: #333333; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif, Verdana; font-size: 15px; line-height: 22.5px; outline: none;">
<i style="line-height: 1.5; outline: none;">Tháng Tư, 2010</i></address>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/02317498291121477691noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-20824565787204799872018-07-10T20:25:00.000+07:002018-07-10T20:25:04.661+07:00TỚ ĐÃ HẾT SỢ MA NHƯ THẾ NÀO?<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://fbcdn-sphotos-a-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xfp1/t1.0-9/q71/s720x720/10259728_693642034029103_1170297025608202315_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://fbcdn-sphotos-a-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xfp1/t1.0-9/q71/s720x720/10259728_693642034029103_1170297025608202315_n.jpg" /></a></div>
<br />
<span style="font-family: "helvetica neue" , "arial" , "helvetica" , sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: "helvetica neue" , "arial" , "helvetica" , sans-serif;">Với mình, một trong những lợi ích của việc hành thiền là đối trị được với những cảm giác sợ hãi. Mình xin chia sẻ với các bạn kinh nghiệm về “sự sợ ma” của mình.</span><br />
<div>
<br /></div>
<span style="font-family: "helvetica neue" , "arial" , "helvetica" , sans-serif;">Từ nhỏ đến lớn, mình rất sợ ma. Trong một khóa tu ở chùa Linh Ẩn, mình ngủ cùng một cô lớn tuổi. Nửa đêm mình bị đánh thức khi thấy có ai chạm vào người. Giật mình tỉnh dậy, mình kinh hãi khi cô ấy nhìn mình chằm chằm, tay như đang vồ lấy mình vậy. Mình sợ hãi hét to, cô ấy cũng giật mình, ngạc nhiên không hiểu tại sao cô ấy lại làm vậy, và cô cũng đang sợ hãi. Cả đêm ấy, mình bị ám ảnh, cứ nhớ lại cảnh đó là mình run rẩy, không dám cựa quậy. Mọi chuyện mờ ảo như trong câu chuyện ma nào đó mà hồi xưa mình đã từng nghe. Vì thế mình càng trở nên sợ hơn và cố xua đuổi cảm giác ấy đi.</span><br />
<span style="font-family: "helvetica neue" , "arial" , "helvetica" , sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: "helvetica neue" , "arial" , "helvetica" , sans-serif;">4h sáng hôm sau, khi thức dậy và đi ra ngoài hành lang, mình đứng trước bóng tối bao trùm, nỗi sợ hãi từ nửa đêm vấn ám ảnh làm mình nghĩ đang có ai đó trong bóng tối và họ đang theo dõi mình. Bất chợt, mình nhớ lại một buổi chia sẻ về “nỗi sợ hãi” của nhóm Thiền Giữa Đời Thường mà mình từng tham gia. Mình bắt đầu trấn tĩnh lại, thở mạnh hơn và bắt đầu quan sát, tự hỏi rằng “Có thật trong bóng tối ấy có gì đó không? Mình đang sợ hãi, sợ hãi có thật không? Hay chỉ là do tâm vẽ vời?”
Sau đó mình nhìn thẳng vào bóng tối, nơi mình nghi ngờ và chờ đợi xem có gì xảy ra không. Và kết quả không là có gì cả, nỗi sợ hãi cũng biến mất khi mình hay biết được rằng nguyên nhân của nỗi sợ hãi là do nỗi ám ảnh từ nhỏ khi bị người lớn dọa ma, vì hình ảnh đáng sợ, ẩn hiện của những con ma trong phim. Và vì mình luôn sợ cái không rõ ràng, cái mình chưa từng tận mắt chứng kiến. Tất cả tạo nên những cảnh tượng ghê sợ mà tâm đang thỏa sức vẽ vời nên, từ đó tạo ra sự sợ hãi cho bản thân. Mình nhận ra rằng, khi dám đối diện với sự sợ hãi bằng sự quan sát và sự hiểu biết. Mình sẽ không còn sợ ma nữa ^^
-</span><br />
<span style="font-family: "helvetica neue" , "arial" , "helvetica" , sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: "helvetica neue" , "arial" , "helvetica" , sans-serif;">Chia sẻ từ bạn Thảo Hub - Thành viên Thiền Giữa Đời Thường</span><br />
<span style="font-family: "helvetica neue" , "arial" , "helvetica" , sans-serif;"><br /></span>
<span style="font-family: "helvetica neue" , "arial" , "helvetica" , sans-serif;">Xin mời các bạn cùng chia sẻ câu chuyện thực tế về kinh nghiệm thực hành, những ứng dụng đạo Phật và Thiền vào cuộc sống về địa chỉ email thiengiuadoithuong@gmail.com kèm 1 ảnh chân dung, hoặc bạn có thể giấu danh tính nếu không muốn lộ diện. Chúng tôi sẽ lựa chọn các câu chuyện và đăng tải trên Facebook hoặc Blogspot Thiền Giữa Đời Thường để mọi người có thể cùng nhau chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm. Chúc các bạn luôn an vui!</span>thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-27013927851478332922018-07-10T11:03:00.000+07:002018-07-10T11:03:21.591+07:00THIỀN VIPASSANA ĐÃ GIÚP TÔI CÂN BẰNG CUỘC SỐNG NHƯ THẾ NÀO?<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://fbcdn-sphotos-f-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xap1/v/t1.0-9/10641159_764020316991274_3600821554582290229_n.jpg?oh=7b618276c64d9a25e655ec95c3d1549a&oe=548E8221&__gda__=1417943805_6d4a11372931ce654f7759930eef653f" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="298" src="https://fbcdn-sphotos-f-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xap1/v/t1.0-9/10641159_764020316991274_3600821554582290229_n.jpg?oh=7b618276c64d9a25e655ec95c3d1549a&oe=548E8221&__gda__=1417943805_6d4a11372931ce654f7759930eef653f" width="400" /></a></div>
<br />
Tôi là người rất hay lo xa, và thường xuyên lập kế hoạch, dự định cho tương lai. Thời gian gần đây tôi nghỉ sinh con. Con tôi ra đời, cháu không khỏe, thường xuyên ốm đau luôn nên tôi chưa tìm được việc làm vì phải liên tục để trông con. Gần đây chồng tôi cũng gặp rắc rối trong công việc, những kế hoạch cho tương lai của chúng tôi đều đang bị trì hoãn, tôi rất choáng váng và lo lắng.<br />
<br />
Khi gặp thiền, tôi bắt đầu học cách sống trong hiện tại nhiều hơn, bớt lo xa tính toán hơn, và tôi thấy tôi thích nghi nhiều hơn với hoàn cảnh không còn cứng nhắc như xưa nữa. Tôi hiểu những gì đang xảy ra là những cơ hội mới cho tôi.<br />
<br />
Càng ngày, tôi càng thấy mình tích cực hơn rất nhiều so với trước khi hành thiền. Ví dụ thay cho việc sợ thất nghiệp, tôi vẫn đi xin việc, nhưng tôi cảm thấy không còn áp lực căng thẳng như trước, tôi thoải mái hơn vì coi đây là cơ hội được gần bên chồng con nhiều hơn.<br />
<br />
Trước đây, tôi thấy cuộc sống thất nghiệp ở nhà với đứa con đau ốm thật sự đáng sợ, nhưng nay tôi nhìn thấy ở đó những cơ hội để làm những việc mà nếu phải đi làm hang ngày tôi không thể làm được. Tôi ít lập kế hoạch xa xôi hơn, mà tìm cách hiểu hơn về hiện tại và chỉ hướng tới những mục tiêu ngắn hạn nhưng khả thi, tôi thấy rất nhiều kế hoạch nhỏ được thành công, còn những kế hoạch lớn lao, dài lâu tôi vẫn giữ trong lòng và cố gắng vì điều đó nhưng chúng không còn làm tôi lo lắng, áp lực như trước kia nữa.<br />
<br />
Cảm ơn thiền Vipassana, cảm ơn duyên lành đưa tôi tới gặp được facebook TGĐT và gặp các Sư. Cảm ơn Sư cô đã hướng dẫn tôi học thiền- học cách sống tích cực trong hiện tại.thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-85876917690991123692018-07-09T22:36:00.000+07:002018-07-09T22:36:00.459+07:00ĐƯƠNG ĐẦU VỚI NHỮNG NỖI ĐAU ẨN SÂU TRONG KÝ ỨC<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://scontent-b-hkg.xx.fbcdn.net/hphotos-xpf1/t1.0-9/q71/s720x720/10405679_715966715129968_2702930804351158903_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://scontent-b-hkg.xx.fbcdn.net/hphotos-xpf1/t1.0-9/q71/s720x720/10405679_715966715129968_2702930804351158903_n.jpg" width="452" /></a></div>
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: "helvetica" , "arial" , "lucida grande" , "tahoma" , "verdana" , "arial" , sans-serif; font-size: 12px; line-height: 15.359999656677246px;"><br /></span>
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: "helvetica" , "arial" , "lucida grande" , "tahoma" , "verdana" , "arial" , sans-serif; font-size: 12px; line-height: 15.359999656677246px;"><br /></span>
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: "helvetica" , "arial" , "lucida grande" , "tahoma" , "verdana" , "arial" , sans-serif; font-size: 12px; line-height: 15.359999656677246px;"><br /></span><br />
<span style="font-family: "helvetica neue" , "arial" , "helvetica" , sans-serif;">Khi màn đêm buông xuống, tôi trở về giường ngủ sau những thời thiền liên tục trong ngày, tỉnh táo và sáng suốt, khá lâu tôi mới đi vào giấc ngủ. Và sau đó tôi choàng dậy bởi cơn mơ, bởi những ký ức xa xưa hiện về, và theo dòng hình ảnh từ trong mơ tiếp diễn ra ngoài đời thực, tôi tiếp tục suy nghĩ những gì đang dang dở trong giấc mơ. Đó là câu chuyện quá khứ với trọn vẹn sự đau đớn mà tôi và họ đã đem đến cho nhau từ hơn 10 năm trước, nay hiện về rõ mồn một. Những suy nghĩ kèm theo những cảm xúc ức chế, đau đớn, khó chịu, ghen tỵ, giận dữ trào dâng…dâng mãi dâng mãi, và tôi vẫn nhận ra được những dòng thác tư tưởng ấy đang chi phối mình như thế nào, câu chuyện đau khổ mà tôi chưa tha thứ được cho họ và cho tôi nay đang trở về nguyên vẹn, mới tinh như hôm qua.<br /><br />Là 1 người đã xuất gia, nhưng suy nghĩ ấy hiện về như mới, làm tôi nghĩ rằng” tu sỹ mà nghĩ linh tinh vậy sao” tôi toan tìm cách khống chế và cắt đứt nó, nhưng một tiếng nói khác lên tiếng” hãy để kỷ niệm trào lên và học hỏi xem sao”, tôi thả lỏng thư giãn, tự nhắc mình nhẹ nhàng hồi phục chánh niệm và để tâm được tự nhiên, tâm chánh niệm nhẹ nhàng dõi theo để thấy toàn bộ dòng suy nghĩ và cảm xúc đang lồng lộn, trào dâng, khi lên đỉnh điểm nước mắt trào ra cay nghiệt nhưng tôi chợt…cười, ồ vâng, suy nghĩ chỉ là suy nghĩ, cảm xúc chỉ là cảm xúc, mỗi thứ là nền tảng để phát khởi cái kia, chỉ la những tiến trình tự nhiên làm việc như một cỗ máy.<br /><br />Chợt nhận ra rằng vào thời điểm đó, với hoàn cảnh đó, với suy nghĩ đó, tính cách đó, những gì tôi và họ đã làm là hoàn toàn hợp lý, vì một thái độ khác sẽ đòi hỏi một sự hiểu biết khác dựa trên những kinh nghiệm và điều kiện khác. Tôi đã không sai, họ cũng không sai, chúng tôi đã tự làm khổ mình và làm khổ nhau bởi sự thiếu hiểu biết, bởi chúng tôi đã tin vào những dòng suy nghĩ và cảm xúc đang chi phối mình khi đó, không ai biết cách hiểu chúng như đúng bản chất của chúng. Chúng tôi không có lỗi, và sau kinh nghiệm ấy tôi có thể thực sự tha thứ được cho mình và cho họ.<br /><br />Và tôi đã vượt qua được nỗi đau khổ sâu sắc đó bởi sự hiểu biết thực sự về sức mạnh nào đang chi phối mình, bởi tôi có 1 sức mạnh riêng được vun bồi qua những năm tháng tu tập: sức mạnh của Thiền chánh niệm (Vipassana).<br /><br />- Chia sẻ từ Sư cô Hương Thiền -<br /><br />Xin mời các bạn cùng chia sẻ câu chuyện thực tế về kinh nghiệm thực hành, những ứng dụng đạo Phật và Thiền vào cuộc sống..về địa chỉ email thiengiuadoithuong@gmail.com kèm 1 ảnh chân dung, hoặc bạn có thể giấu danh tính nếu không muốn lộ diện. Chúng tôi sẽ lựa chọn các câu chuyện và đăng tải trên Facebook TGĐT để mọi người có thể cùng nhau chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm. Chúc các bạn luôn an vui!</span>thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-74773020090574775672018-07-08T10:59:00.000+07:002018-07-08T10:59:00.301+07:00NGHIỆN RƯỢU, TRẦM CẢM VÀ ...THIỀN<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjQucazt88SWtYtfuctXZk3dAEjaeP1brAeRtR0KqEVXR9x-P6LUvu5bre8Vy9IqmCGkStOEIZwffh7dvY1A_8HEL1am2Kcp4iYuy77dhvE8H3PfBn7knJ4J5_45NPX3jM1jDu9ka9LGQY/s1600/imagesdsfa.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjQucazt88SWtYtfuctXZk3dAEjaeP1brAeRtR0KqEVXR9x-P6LUvu5bre8Vy9IqmCGkStOEIZwffh7dvY1A_8HEL1am2Kcp4iYuy77dhvE8H3PfBn7knJ4J5_45NPX3jM1jDu9ka9LGQY/s320/imagesdsfa.jpg" width="320" /></a></div>
Một người bạn của tôi, thực hành thiền đã lâu rồi, trước kia hút thuốc và uống rượu rất nhiều, lần đầu tiên đến học thiền anh ấy nói: tôi không thể bỏ rượu được, nhưng tôi muốn học thiền, có được không? Tôi nói: OK, được. Hành thiền trước đã. Thế là anh ấy bắt đầu thực hành thiền, và tôi nhắc anh ta rằng mỗi khi cơn thèm thuốc hay thèm rượu khởi lên, hãy quan sát cái thèm đó thật kỹ, đừng đầu hàng nó ngay lập tức. Hãy thong thả, không cần phải vội vàng.Hãy hứng thú với chính cái thèm ấy.Thực ra cái tâm tham, cái thèm muốn rất thú vị.Tham là một trạng thái tâm rất thú vị.Anh ấy là một người nhiệt tâm và trung thực.Mỗi khi cơn thèm thuốc, thèm rượu khởi lên, anh ấy quan sát trạng thái tâm ấy thật lâu, nhưng sau một lúc thì không thể chịu được nữa.Vì vậy tôi lại hướng dẫn cho một bài tập khác. Được, nếu anh muốn uống rượu quá, nếu anh thực sự quyết định mình nhất định phải uống, hãy uống đi, nhưng phải làm thật chánh niệm, cầm chai rượu, lấy cốc, thật chánh niệm, rót rượu ra cốc, thật chánh niệm, cầm cốc lên, thật chánh niệm, đưa lên môi, thật chánh niệm, uống một ngụm, thật chánh niệm, nhưng đừng có nuốt vội, hãy giữ nó trong miệng một lúc và xem bạn cảm thấy như thế nào. Anh ấy thử làm theo. Anh giữ ngụm rượu trong miệng và cẩn thận quan sát cái gì đang diễn ra.Miệng trở nên rất nóng.Cổ họng nóng và ngực cũng nóng bỏng. Rồi anh nuốt ngụm rượu thật chậm, và anh nói khi tôi uống rượu trong chánh niệm, tôi không thể uống được nhiều như trước kia nữa. Chỉ hớp vài hớp là tôi đã cảm thấy thoả mãn rồi và phải đổ chỗ rượu thừa vào chai cất đi.<br />
<br />
<b>Vì vậy chánh niệm hạn chế bạn lại.</b><br />
<b>Nếu bạn làm việc gì bất thiện, chánh niệm sẽ hạn chế nó.</b><br />
<br />
Sau khi thực hành thiền chánh niệm cả một thời gian dài, có lẽ phải đến hai năm, anh ấy vẫn uống rượu nhưng rất nhiều lần nói sẽ từ bỏ rượu.Anh ấy nói điều ấy nhiều lần lắm.Tôi chuẩn bị bỏ rượu đây. Anh ta nói với vợ mình như thế nữa: anh sẽ bỏ rượu. Nhưng rồi sau đó vẫn cầm chai uống, vợ anh ta nói: Anh bảo bỏ rượu bao nhiêu lần rồi cơ mà. Thế khi nào anh mới bỏ thật đây?Sao anh nói bỏ rượu lâu rồi mà đến bây giờ anh vẫn còn uống? Và anh ta rất bực mình. Anh ta nói: “Đừng có lên mặt dạy bảo tôi, bởi vì cô cứ lên giọng dạy tôi đừng có uống, nên tôi phải uống nữa”. Vì vậy anh ta tiếp tục uống. Nhưng bởi vì có hành thiền, nên cơn thèm rượu cứ giảm dần, giảm dần và cuối cùng anh ta không muốn uống nữa. Một ngày, anh ấy nói: “Từ ngày hôm nay, tôi sẽ không uống nữa”. Và anh ấy thực sự dừng lại, không uống nữa, nhưng để thử thách mình xem lòng quyết tâm có thực sự mạnh mẽ hay không, anh vẫn giữ một chai rượu trong tủ lạnh. Chỉ như là một sự cám dỗ, để xem mình có thể thực sự cai rượu được không. Nhưng đúng là anh ấy đã bỏ hẳn rượu.Cho đến tận bây giờ, anh ấy không bao giờ uống một giọt rượu nào nữa.<br />
<br />
Và một người phụ nữ khác tôi gặp ở Mỹ cũng thế, câu chuyện của cô ấy rất thú vị. Cô ấy nghiện ma tuý, nghiện rượu và tâm lý cũng không được ổn định lắm, cô ấy không bao giờ làm được công việc gì lâu dài, không thể hoà hợp được với mọi người. Cô ấy đến chùa, và tôi hỏi: “Tại sao cô đến chùa?” Cô ấy trả lời: “Tôi không ngủ được”. Tôi nói: OK, nếu không ngủ được thì OK, có một loại thiền cô có thể thực hành để ngủ được. Thể loại thiền đó là gì?Các bạn có biết không?Nếu thực hành loại thiền đó bạn sẽ ngủ rất ngon, và không có ác mộng...A... trước khi tôi nói hết, chắc các bạn đã đoán ra cả rồi.Thiền tâm từ, tất nhiên rồi. Khi thực hành thiền tâm từ, bạn trở nên rất dịu dàng, bạn cảm thấy bình yên, và bạn dễ ngủ, không có ác mộng, bạn thức dậy tươi mới và sảng khoái. Vì vậy tôi dạy cô ấy thiền tâm từ, rồi bảo cô ấy ngày hôm sau quay lại. Hôm sau cô ấy đến và nói: “Ngài thực hành thiền của ngài như thế nào? Tôi không thể thực hành được thiền tâm từ”. Tôi hỏi: “Tại sao cô không rải tâm từ cho chính mình? Nguyện cho tôi được hạnh phúc và bình an. Nguyện cho tôi mạnh khoẻ.Nguyện cho tôi có được tất cả những gì tốt đẹp mà tôi mong muốn.Tất cả mọi người đều thích làm như vậy”. Cô ấy nói: “Tôi không muốn nghĩ về bản thân mình, tôi ghét bản thân tôi”. Tôi hỏi: “Thế còn bố mẹ cô thì sao?”. Cô ấy trả lời: “Bố tôi chết đã lâu rồi. Ông ấy nghiện rượu và tôi căm ghét ông ấy bởi vì khi chúng tôi còn nhỏ, ông ấy không bao giờ nhìn ngó gì đến chị em chúng tôi”. “Thế còn mẹ cô thì sao?”, cô ấy nói: “Mẹ tôi cũng chẳng bao giờ quan tâm đến chúng tôi, vì vậy tôi cũng chẳng muốn nghe giọng bà ấy nữa. Khi bà ấy gọi điện thoại cho tôi, chỉ cần nghe thấy giọng bà ấy là tôi đã cúp điện thoại ngay rồi.Tôi không muốn nói chuyện với bà ấy”. Tôi hỏi: “Thế còn các thầy cô giáo của cô ở trường?”.“Chẳng có ai làm cho tôi cảm thấy tốt đẹp khi nghĩ đến cả”. “Còn bạn bè thì sao?”. Cô ấy nói: “Tôi không có bạn”. <br />
<br />
Wow, tôi nghĩ, đây quả thực là một ca khó đây. Tôi chưa bao giờ gặp một trường hợp nào như vậy trước đây. Thế rồi tôi nói: “Tôi rất ngạc nhiên khi nghe cô nói như thế. Tôi không trách cô nhưng đây là lần đầu tiên tôi nghe một người nói rằng không có một người nào họ có thể yêu thương như vậy”. Cô ấy lặng yên ngồi nghĩ ngợi một lát rồi nói: “À, tôi có yêu một con chó nhỏ, nó là con chó của bạn tôi”. Không phải là con chó của cô ấy, mà làcon chó của bạn cô ấy. “Khi chơi với nó, tôi cảm thấy rất hạnh phúc”. Tôi nói: “Ồ, vậy thì ít nhất cô cũng có một sinh vật để yêu thương. Vậy bây giờ hãy nghĩ đến con chó ấy và rải tâm từ cho nó”. <br />
Yêu thương con chó hay yêu thương con người thì cũng như nhau, cùng là một trạng thái tâm.Dần dần, tôi dạy cô ấy phát triển tâm từ - tình thương và lòng nhân hậu - và cả thiền chánh niệm nữa.Tâm cô ấy đờ đẫn và buồn ngủ suốt ngày, bởi vì đã dùng quá nhiều ma tuý và rượu, rất khó để ngồi thiền.Tôi hướng dẫn cô ấy tập đi kinh hành (thiền trong tư thế đi) một cách chánh niệm, chỉ đi chân trần trên nền xi măng ráp. Cô ấy thực hành rất chăm chỉ, cố gắng rất nhiều, tập trung hết sự chú ý vào từng bước chân nhấc lên, đặt xuống, cảm nhận những cảm giác trên bàn chân. Cô ấy thực hành đêm ngày, và một ngày đến gặp tôi và nói: đêm qua tôi thức giấc lúc nửa đêm, lúc mọi người đã ngủ sâu, và đêm ấy là đêm rằm. Tôi muốn ra ngoài, vì vậy tôi bước ra và ngắm trăng. Thật đẹp. Mặt trăng sáng trong.Tôi nhìn cây cối trong rừng, bởi vì chùa ở trong một khu rừng lớn, rừng tùng. Cô ấy nói: tôi nhìn những cái cây và thấy chúng đẹp quá, chúng rất sống động, tôi có cảm giác chúng như là những sinh vật sống như con người. Tôi cảm nhận được sự bình yên của chúng.Những cái cây ấy thật bình yên.Và tôi bắt đầu đi thiền hành, cô ấy nói, tâm tôi trở nên vô cùng yên tĩnh và bình yên.Đó là lần đầu tiên trong đời tôi cảm nhận được sự bình yên của tâm hồn.<br />
<br />
Kể từ ngày ấy, cô ấy thực hành ngày càng tích cực hơn, sau một vài tháng cô ấy đã hoàn toàn bỏ hẳn ma tuý, rượu và mọi thứ khác. Trước đó cô ấy sử dụng rất nhiều loại ma tuý khác nhau, cần sa, heroin... Bởi vì nghiện ma tuý và rượu nên cô ấy không ăn được, người chỉ còn da bọc xương, rất nghèo, không có một xu dính túi.Sau khi bỏ rượu và ma tuý, cô ấy khoẻ mạnh trở lại, ăn được và có viết thư cho tôi.Bây giờ đã tăng được 9 kg. Cô ấy tăng cân, hạnh phúc hơn, khoẻ mạnh hơn và bắt đầu có thêm nhiều bạn bè, tìm được một công việc mới, làm kế toán, bởi vì trước kia cô ấy có bằng kế toán. Khi tôi quay lại Mỹ năm 2001, lần đầu tôi gặp cô ấy là năm 1983 và tôi rời Mỹ năm 1984, mãi đến năm 2001 tôi mới quay trở lại. Cả một thời gian 17 năm.Khi tôi đến đó, cô ấy tìm ra tôi ở đó và đến gặp, tôi thấy cô ấy và rất vui.Tôi chào cô ấy.Thầy còn nhớ con không? Tôi nói: tất nhiên là tôi nhớ cô chứ. Cô bây giờ trông thật khoẻ. Cô ấy nói: vâng, bây giờ con rất khoẻ, con chăm sóc bản thân con rất tốt. Con ăn uống tốt, hành thiền mỗi ngày, đi kinh hành mỗi ngày hai lần, một lần buổi sáng và một lần buổi tối, con có một công việc và có một ngôi nhà.<br />
<br />
Bạn thấy đấy, cuộc đời cô ấy đã hoàn toàn thay đổi. Thiền đem lại cho cô ấy sự tự tin, sức mạnh, sự dũng cảm, quyết tâm, kiên nhẫn và kỷ luật, tất cả mọi thứ, vì vậy cô ấy có thể hoạch định cho cuộc sống và thay đổi cuộc sống của mình. Tôi rất vui khi gặp lại cô ấy.Và một điều nữa cô ấy nói là cho đến bây giờ cô ấy vẫn không hề uống rượu trở lại.Cô ấy nói thế, cô ấy rất hạnh phúc khi nói điều đó.Tôi không uống rượu nữa. Nghĩa là cô ấy cai rượu từ năm 1984 và đến tận lần cuối cùng tôi gặp cô ấy năm 2001, cô ấy không hề đụng đến một giọt rượu nào. Cô ấy trông rất khoẻ.<br />
Một điều nữa cô ấy nói là, con có một chỗ thờ Phật nho nhỏ trong phòng làm việc.Tôi không cố cải đạo cho cô ấy thành một Phật tử.Tôi chỉ dạy cô ấy sống một cuộc đời lành mạnh, làm cho tâm cô ấy tĩnh lặng và bình yên hơn, trở thành một người hạnh phúc và một lối sống lành mạnh.Tôi chỉ giúp cô ấy làm như vậy.Nhưng sau đó, cô ấy đã phát triển tình thương và lòng kính trọng, đối với Đức Phật và cả các nhà sư. Khi gặp lại, cô ấy đảnh lễ với sự khiêm nhường thực sự, với lòng biết ơn chân thành và tôi cảm thấy rất hạnh phúc, không phải vì cô ấy đảnh lễ tôi, mà tôi cảm thấy hạnh phúc và vui mừng cho trái tim cô ấy, cho sự biết ơn, cho Giáo Pháp và Đức Phật.<br />
<br />
Trích: KHÔNG THỂ SỐNG THIẾU THIỀN <br />
Thiền sư Sayadaw U Jotikathiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-79964354420995419832018-07-07T11:07:00.000+07:002018-07-07T11:07:08.221+07:00CHIA SẺ CỦA MỘT THIỀN SINH VIPASSANA VỀ TÁC DỤNG CỦA VIỆC HÀNH THIỀN TRONG ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://fbcdn-sphotos-g-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xaf1/v/t1.0-9/10606087_764012866992019_3253239525716751590_n.jpg?oh=70a8f0e2d5a0d8d9861c2c861bbd1714&oe=54994B56&__gda__=1418015975_57ec0524d09b04f73286ff8568db58bc" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="295" src="https://fbcdn-sphotos-g-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xaf1/v/t1.0-9/10606087_764012866992019_3253239525716751590_n.jpg?oh=70a8f0e2d5a0d8d9861c2c861bbd1714&oe=54994B56&__gda__=1418015975_57ec0524d09b04f73286ff8568db58bc" width="400" /></a></div>
<br />
<br />
Chồng tôi là một người yêu thương vợ con, nhưng rất hay ghen. Khi ghen, chồng tôi trở nên rất ghê gớm và độc đoán. Từ ngày lấy chồng, tôi dường như mất hết tự do, không còn bạn bè, làm gì cũng bị kiểm soát. Về phía tôi, tôi cũng dựa vào chồng quá nhiều, luôn cần đến anh ấy, không có cuộc đời tiêng của mình.<br />
<br />
Từ khi gặp Thiền, tôi quay lại sống với thế giới bên trong, tôi bắt đầu dành thời gian cho riêng mình mà anh ấy không thể ghen được vì tôi ko cần phải gặp gỡ hay làm gì đặc biệt, Cho đến 1 ngày anh ấy nhận ra rằng tôi không còn cần anh ấy lo cho tôi quá nhiều, ko cần dựa vào anh mới có hạnh phúc, mà cũng không cần một người nào khác. Tôi có cuộc sống riêng mà nếu không hiểu về cuộc sống ấy, anh ấy sẽ mất tôi.<br />
<br />
Chồng tôi thay đổi dần dần thái độ, để có được tình cảm và sự quan tâm của tôi, anh ấy bắt đầu đi đến thiền viện để hành thiền cùng tôi, mặc dù không thật sự thích thú. Tuy nhiên, chồng tôi rất sợ tôi sẽ vào đó ở lâu dài, nên anh quan tâm chăm nom tôi và sống trách nhiệm hơn. Tôi vẫn rất yêu chồng con và lo lắng cho gia đình, đồng thời tôi có sự tự do của riêng tôi, nhờ đó chồng tôi cũng tôn trọng tôi hơn, cần đến tôi hơn. Chúng tôi bắt đầu quan tâm đến nhau hơn. Tôi rất biết ơn Thiền vì điều đó.thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-62913678889718865572018-07-05T10:13:00.000+07:002018-07-05T10:13:05.620+07:00KINH NGHIỆM MỘT THIỀN SINH<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTomPFEsOiymFEVpj55zHD_8YG-ARYfkm2jdkB5nr47sWY1uwSWVibQi72clXmajYWj3q4WWmpmq6XakG0SOIFu0ojNCc2Hju4gOuuZcCNRkeeOb7QAlpgPgazCnAeUi28OnuwpfXn0hw/s1600/Lotus_Position_0.gif" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="394" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTomPFEsOiymFEVpj55zHD_8YG-ARYfkm2jdkB5nr47sWY1uwSWVibQi72clXmajYWj3q4WWmpmq6XakG0SOIFu0ojNCc2Hju4gOuuZcCNRkeeOb7QAlpgPgazCnAeUi28OnuwpfXn0hw/s1600/Lotus_Position_0.gif" width="400" /></a></div>
<br />
Có nhiều lúc tôi cảm thấy mình là một thiền sinh rất tệ. Có những ngày tôi ngồi thiền nhưng chẳng có chút gì là chánh niệm( ghi nhận quan sát thân tâm mình). Tôi tự hỏi, không biết mình có cố gắng đủ hay không? Tôi có lười biếng quá không? May mắn thay, vì được dạy rằng mình cần phải biết rộng lượng và tha thứ cho những thất bại của mình trên con đường tu học, nên tôi cũng không cảm thấy buồn nản cho lắm. Nhưng cũng có thể vì vậy mà tôi thiếu sự tinh tấn chăng?
Sự thật là nhiều năm trước đây, tôi nhận thấy thật ra mình cũng không thể nào kiểm soát được những gì xảy ra trong lúc ngồi thiền - tôi chỉ có thể có mặt ngồi nơi tọa cụ mà thôi. Trong thời gian đầu, tôi vất vã cố gắng để thực hành theo lời hướng dẫn - theo dõi hơi thở, khi nào tâm ta lo ra, buông bỏ tư tưởng ấy và trở lại với hơi thở của mình - nhưng chẳng có gì đặc biệt xảy ra hết. Thật ra, tôi cảm thấy rất bất an trong những lúc ngồi thiền. Sau đó, tôi cảm thấy khá hơn một chút, nhưng cái kinh nghiệm ấy tự nó vẫn là khó chịu.
Nhưng cuối cùng rồi thì tôi cũng vượt qua, và bắt đầu có được những kinh nghiệm tĩnh lặng và sáng tỏ. Và trong suốt nhiều năm, và các khóa tu, kế tiếp, tôi cố gắng giữ một sự quân bình trong sự thực tập của mình, "dụng công nhưng không dụng lực."<br />
<br />
Khi nào tôi thể hiện được điều này thì mọi việc dường như đều rất trôi chảy, tôi cảm thấy mình có một sự tỉnh thức tự nhiên và buông bỏ nhẹ nhàng. Và ngược lại, những khi thất bại, tôi cảm thấy mình lạc lõng, bối rối và tràn ngập bởi những tư tưởng và cảm giác rằng mình hoàn toàn mất sự tự chủ. Và rồi từ đó tôi lại tự hỏi không biết phương cách thực tập này của tôi có thích hợp không.<br />
<br />
Gần đây, tôi có đọc được bài kinh mở đầu trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta-Nikáya). Trong bài kinh ấy có người hỏi đức Phật bằng cách nào để ngài vượt qua được dòng nước lũ, ý nói về sự giác ngộ của ngài. Câu trả lời của Phật thật vô cùng đơn sơ:
- "Này Hiền giả, không đứng lại, không vội vã, Ta vượt khỏi dòng nước lũ."
- "Thưa ngài, làm sao không đứng lại, không vội vã, Ngài vượt khỏi dòng nước lũ?" Người ấy hỏi.
- "Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta bị chìm xuống. Khi Ta vội vã, thời Ta bị cuốn trôi; do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không vội vã, Ta vượt khỏi dòng nước lũ."
Tôi nghĩ câu trả lời của đức Phật diễn tả được điều mà tôi đang cố gắng để đạt đến trong sự thực tập của chính mình. Tôi cứ tiếp tục có mặt nơi toạ cụ của mình, dù cho chuyện gì xảy ra, nhưng không cố sức quá.<br />
<br />
Trong thời gian qua, tôi cũng có thực tập theo chương trình Twelve-Step programs, họ có một câu châm ngôn là "chỉ từng ngày một." Tôi nghĩ câu ấy có nghĩa là, ta đừng cố gắng phải giải quyết hết mọi vấn đề trong cùng một lúc - hay là đạt giác ngộ - chỉ cần ta chăm sóc cho những gì cần thiết trong ngày hôm nay. Hôm nay ta chỉ cần ngồi trên toạ cụ của mình theo thời gian hạn định. Đừng tự trách móc hay phê phán về buổi ngồi thiền ấy là thành công hay thất bại. Đó không phải là chuyện của mình. Chuyện của mình là có mặt và ngồi ở đó. Nếu bạn bỏ sự thực tập vì nó không đạt đúng với "tiêu chuẩn" của mình muốn, như đức Phật dạy, bạn sẽ bị chìm xuống.<br />
<br />
Đức Dalai Lama cũng có khuyên chúng ta không nên lúc nào cũng cứ xem xét và phê phán sự thực tập của mình. Ngài dạy, chúng ta chỉ nên nhìn lại sau một thời gian dài, như là năm hay mười năm, chừng ấy ta mới thật sự thấy được sự tiến triển của mình. Tôi nghĩ có lẽ ý ngài cũng khuyên chúng ta đừng nên dừng lại.
Nhưng dù vậy, trên con đường thực tập, có những lúc tôi nhìn chung quanh và thấy hoang vu, không có gì thay đổi hay khác biệt. Tôi có tự dối gạt mình hay không? Tôi có thật sự cố gắng đủ chưa? Có lúc, tôi thực tập với một vị thầy dạy cho tôi những phương pháp thực hành gắt gao hơn, nhưng rồi tôi vẫn trở về với đường lối nhu hoà của mình. Đó có phải là phản ảnh của một tính khí yếu đuối chăng? Có lẽ tôi cần phải nên cố gắng nhiều hơn để tăng trưởng định lực và chánh niệm của mình. Vấn đề là mỗi khi tôi cố gắng gò bó mình, cuối cùng tôi lại cảm thấy còn tệ hại hơn trước. Chắc có lẽ tôi chỉ có thể là vậy thôi.<br />
<br />
Đứa con gái của tôi khi lên sáu, mỗi lần bị la rầy nó hay nói, "Con đâu phải là chủ của đầu óc của mình." Nghe thấm thía làm sao.
Tôi là một giáo thọ, tôi đi hướng dẫn các khóa tu, vì vậy cho nên tôi thuộc vào hạng "Bác sĩ, hãy lo chữa bệnh cho mình đi!" Thật ra thì tôi cũng hiểu về những ý nghĩ ngờ vực này của tôi lắm chứ. Nhưng vấn đề tôi muốn nêu ra là thế nào là Chánh Tinh Tấn? Thật ra đó không phải là một vấn đề của riêng tôi. Trong những khóa tu, tôi thường khuyên người khác nên từ tốn với chính mình, có niềm tin vào sự thực tập, nhìn mọi việc xảy ra trong một không gian rộng lớn, và nhớ rằng cái gì cũng rồi sẽ qua. Hãy có niềm tin vào đạo pháp, cho dù ta không có niềm tin nơi mình. Đó là lời khuyên mà tôi có thể dùng được!<br />
<br />
Là một giáo thọ, tôi không tránh khỏi ghi nhận những hình ảnh của các vị giáo thọ khác, và thấy rằng gương mặt họ lúc nào cũng tươi sáng và nở nụ cười. Hình như họ có một thông điệp là, "Nếu bạn thiền tập như tôi, bạn sẽ có hạnh phúc!" Và những lời hướng dẫn thiền tập cũng vậy, có vẽ như rất hoàn hảo, không có chút gì là bất toàn hết. Đôi khi tôi tự hỏi, ta có nên ghi thêm những câu này trong các khoá tu không: "Những kinh nghiệm thật sự của bạn trong khóa tu này sẽ tùy thuộc vào những nghiệp quả trước đó, karma, của bạn. Các vị thầy và trung tâm này không thể bảo đảm về sự giác ngộ của bạn (hoặc là bạn có vui thích hay không)."
<br />
<br />
Cuộc đời của tôi có biết bao những thăng trầm - buồn vui, căng thẳng, hân hoan, mệt mỏi. Và tất cả những trạng thái ấy đều được phản ảnh trong buổi ngồi thiền hằng ngày của tôi. Đôi khi, tôi muốn sự thiền tập của mình hoàn toàn cách biệt hẳn với chúng, như là một trạng thái nhiệm mầu nào đó mà tôi có thể bước vào và lánh xa hết tất cả. Nhưng thật ra thiền tập không phải là một sự trốn tránh thực tại, mà ngược lại, nó là một nhận thức về thực tại sâu sắc hơn. Và nếu ta nhìn cho sâu và cho thật rõ, bên dưới cái thực tại bất an ấy là một thực tại tĩnh lặng, tuệ giác và hạnh phúc. Đó mới chính là chân thực tại.
Và nếu tôi không dừng lại và cũng không vội vã, sự tĩnh lặng và tuệ giác này này sẽ tự nhiên hiển lộ -- theo thời điểm của nó, chứ không phải của tôi.<br />
Chuyển ngữ sang tiếng Việt: Nguyễn Duy Nhiên<br />
Theo: Buddhasasana
thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-35270001293946134602018-07-05T09:24:00.000+07:002018-07-05T09:24:03.278+07:00KHI NGƯỜI GIÀU KHÓC...<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiCGJYh9mHAV-8v3U1euW3KYqyflPAioAB9s3a19rFYWeBpCf-TF2dkkeJFpcmx45BBTNwz672FWDujCSwiPhTWK-CsrNWgkPLMyRBrhIGvyaPJZjMf9OFTo7OxKVkRuN_23aAH5-dIhMk/s1600/99795c36de812fec5f8152110cd429efe4bb2ca5.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="800" data-original-width="800" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiCGJYh9mHAV-8v3U1euW3KYqyflPAioAB9s3a19rFYWeBpCf-TF2dkkeJFpcmx45BBTNwz672FWDujCSwiPhTWK-CsrNWgkPLMyRBrhIGvyaPJZjMf9OFTo7OxKVkRuN_23aAH5-dIhMk/s320/99795c36de812fec5f8152110cd429efe4bb2ca5.jpg" width="320" /></a></div>
HỎI:<br />
Con có quen biết 1 đôi vợ chồng diễn viên nổi tiếng, họ giàu sang, xinh đẹp, tài năng nên là niềm mơ ước của nhiều người nhưng con thấy họ sống rất căng thẳng, mệt mỏi, cả 2 đều ngoại tình, lăng nhăng nên chính họ khổ, con cái cũng khổ, nhiều lúc con thấy họ còn đáng thương hơn con là người bình thường nhưng sống vui vẻ.<br />
ĐÁP:<br />
- Mở đầu xin hỏi, với 1 chân đi trên thảm đỏ êm ái và 1 chân còn lại đi trên đá nóng, cứng, rát, lúc đó quý vị thấy sao? Có thực sự sung sướng ???.Và họ cũng vậy, dù họ đẹp, giàu có, nổi tiếng, nhưng cũng khổ vì áp lực của sự nổi tiếng, căng thẳng, khủng hoảng, đố kỵ, ghen ghét.<br />
- Họ tìm kiếm những mối quan hệ ngoài luồng vì cảm giác chán ghét cái cũ, cái ko ưng ý để tìm cầu cái mới lạ, ưng ý mà thôi, rồi cái mới trở thành cũ, cái ưng ý lộ ra những điều không ưng ý mới….vòng quay lại lặp lại. Ngay từ khi cưới vợ dựng chồng, nếu họ biết sẽ có 1 ngày mọi thứ sẽ đổi thay, có lẽ nhiều điều sẽ khác, trải qua nhiều những cuộc tình, biết nó sẽ thế nào....có lẽ họ sẽ phản ứng khác<br />
- Tuy có 1 khối tài sản lớn, tài năng vượt trội nhưng họ vẫn đau khổ bởi không thể kéo dài mãi niềm vui, không thay đổi được mình và người khác như mong muốn. Chúng ta cũng vậy, có chăng chúng ta học Phật để xây dựng được cho mình khả năng chấp nhận sự thay đổi ấy<br />
- Cái cần ghìn giữ không phải là cảm giác thích thú, ưng ý trong các mối quan hệ, mà là sự tự trọng, sự chân thực, sự vị tha, tính thông cảm trong mỗi người mà Phật giáo gọi chung là Giới Hạnh<br />
- Tài sản lớn>>> Dễ thỏa mãn giác quan>>> Lòng ham muốn càng nhiều>>> càng phải biết cách kiểm soát, chế ngự, điều tiết các trạng thái tâm >>> càng phải phát triển hiểu biết đúng về chính mình và mọi người. Điều này Phật giáo gọi chung là Trí Tuệ.<br />
Chẳng phải người giàu sang mới cần phát triển điều này, tất cả đều cần phát triển Giới Hạnh và Trí tuệ, nhưng giàu lên bao nhiêu thì khả năng đối diện với những sự " hiểm nguy trong vị ngọt ẩn tàng" cũng phải cao dường như thế.<br />
- Sư cô Hương Thiền -thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-67984160194811637202018-07-04T09:15:00.000+07:002018-07-04T09:16:11.111+07:00HOÀI NGHI VÀ THẨM TRẠCH (TRẠCH PHÁP)<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg8zqu6H4VGqxSw271FPQFHRHh5GonCskcdyYdeTmPKSRBAapTKsdjrfTFYnA-Nql-PQqNw31wjP-vv2Gs0ePr_hkl1UNMue_kotgvty4bBalD-aPAlF14HtlkjhuhUGH_y-67Pka_FWLY/s1600/khiem-ton.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="339" data-original-width="506" height="214" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg8zqu6H4VGqxSw271FPQFHRHh5GonCskcdyYdeTmPKSRBAapTKsdjrfTFYnA-Nql-PQqNw31wjP-vv2Gs0ePr_hkl1UNMue_kotgvty4bBalD-aPAlF14HtlkjhuhUGH_y-67Pka_FWLY/s320/khiem-ton.jpg" width="320" /></a></div>
Phi như lý tác ý (chú tâm không khôn ngoan), đến các đối tượng gây ra nghi ngờ là yếu tố chính hoặc ‘dưỡng tố’ dẫn đến sự hiển lộ hoài nghi . ‘Phi như lý tác ý’, ayoniso manasikāra, là duyên sinh ra hoài nghi. Ngược lại, ‘như lý tác ý’, chú tâm khôn ngoan hay chú tâm thấu đáo, yoniso manasikāra, phải được điều hướng để phân biệt giữa cái gì là thiện lành và không thiện lành, cái gì là đáng chê trách và đáng khen ngợi, cái gì là cao thượng và hạ liệt, cái gì là tối tăm và trong sáng. <br />
<br />
Như thế, cần phải ghi nhận ở đây là yếu tố ‘như lý tác ý’ một mặt được sử dụng để đoạn trừ hoài nghi và một mặt khác, được dùng để phát triển trạch pháp.<br />
<br />
Trạch pháp sinh khởi dựa vào niệm. Điều này cho thấy rằng loại thẩm tra cần thiết để vượt qua sự hoài nghi có quan hệ gần gũi với niệm, theo ý nghĩa ‘thẩm tra’ với nhận thức rõ ràng về bản chất thực sự của ‘pháp’.<br />
<br />
Một khía cạnh khác của trạch pháp là thẩm tra về lý thuyết. <br />
Quy trình hóa giải hoài nghi thông qua thẩm tra được mô tả trong nhiều bài kinh, qua đó, nên gặp gỡ bậc thiện trí để được giải thích, làm rõ các câu hỏi, để xua tan những nghi ngờ của mình (<br />
<br />
<br />
Người nào quen nghe Pháp trong kiếp nầy sẽ tiếp tục hưởng được lợi ích cho cuộc sống trong các kiếp sau, bởi vì người ấy sẽ dễ dàng tiếp nhận nếu có dịp được nghe Pháp mà không do dự, cũng giống như những ai đã từng nghe âm thanh tiếng trống hoặc tù và sẽ không nghi ngờ hoặc phân vân về bản chất của âm thanh vừa nghe<br />
<br />
Chỉ khi nào hoài nghi được khắc phục theo cách này, mới có thể diệt trừ tham, sân và si. Những lợi ích khác của việc khắc phục hoài nghi là hành giả sẽ bình tĩnh, không sầu khổ khi lâm bệnh trầm trọng, và vị ấy có thể sống ở những nơi hẻo lánh trong khu rừng hoang dã mà không sợ hãi, khiếp đảmthiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-61147607525086201962018-07-03T09:05:00.000+07:002018-07-03T09:05:08.329+07:00NGƯỜI TỬ TẾ GẶP KHÔNG MAY?<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh5oQl27WG9Z6MmgQpNBLITCi48qoMkmxg5KwzhKzfvEipcQQM6noIPFHMEtleHZ2QPLEcnotSvZq3YdEBnwMIAzb1ZyTmUcmO1R2j5nz7LeS9ihvk5nsioOEH0n0WBSuCVLga9VLDVO9o/s1600/11204934_603445509793184_4093937538871260335_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="720" data-original-width="960" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh5oQl27WG9Z6MmgQpNBLITCi48qoMkmxg5KwzhKzfvEipcQQM6noIPFHMEtleHZ2QPLEcnotSvZq3YdEBnwMIAzb1ZyTmUcmO1R2j5nz7LeS9ihvk5nsioOEH0n0WBSuCVLga9VLDVO9o/s320/11204934_603445509793184_4093937538871260335_n.jpg" width="320" /></a></div>
HỎI: "Tại sao con luôn sống tử tế, sẵn sàng giúp đỡ mọi người và chưa bao giờ làm hại bất kỳ ai mà toàn bị người đời tìm cách hãm hại và toàn gặp chuyện xui xẻo như thế này? Con cảm thấy cuộc đời rất bất công, nhiều khi muốn buông xuôi tất cả. Xin sư cô cho con lời khuyên?"<br />
<br />
ĐÁP:<br />
- Thực sự quý vị đã hoàn toàn tốt đẹp??? hay động cơ bên trong vẫn còn nhuốm màu vị kỷ, phục vụ cho cái Tôi và của Tôi. Chỉ khi hành thiền mới nhận ra được " thế lực phiền não" nào đang điều khiển mình.<br />
- Chính những suy nghĩ so sánh, đánh giá này nói lên bạn luôn bất an, mà nội tâm bất an thì hành động, lời nói cũng đem đến phiền não, bất an cho người khác- đó là quy luật tất yếu. Bạn chưa phải là một nguồn suối an lành cho ng khác như bạn tưởng đâu.<br />
- Nếu thực sự tốt thì Nhân Quả sẽ trả lời khi các điều kiện hội tụ, còn nếu bị xui xẻo, vẫn nên tự xét lại mình 1 cách sâu sắc hơn. Chỉ có sự bình an nội tâm, hiểu biết sẽ khiến cho mọi việc ổn định lại, còn việc làm tốt nhưng động cơ chưa tốt, hoặc thái độ xấu ngầm bên trong thì chưa phải là Nhân tốt để chắc chắn ra quả Tốt được.<br />
- Suy cho cùng, sự xui xẻo hiện nay cũng chưa chắc là dở vì bài học này quý vị được học khi còn trẻ, còn có khả năng tư duy và thay đổi thì khó khăn này trở thành cơ hội để trưởng thành. Con người ta dễ ngủ quên trên đệm êm lắm.<br />
- Và ý cuối cùng...thì ĐỪNG QUAN TÂM ĐẾN KẾT QUẢ, HÃY TẠO NHÂN LÀNH, KẾT QUẢ SẼ TỰ ĐẾN.<br />
Thân mến!<br />
- Sư cô Hương Thiền -<br />
<div>
<br /></div>
thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-48656251087499147502018-07-03T08:58:00.000+07:002018-07-03T08:58:05.377+07:00Có hai loại: chánh định và tà định.<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjb0LzdWTR8gZOHtLNKcIQ23Ov9kBJdn3Kf5EKzeeIELmjDxHTZspqqShZEM_3WFE7g3Savk1jk1H-dK8xfjL51PBYaFdQzicDiihJff25vP1CGkLxjYpvP8C7i4RYdA6MgGk7OasnA76Q/s1600/13903347_926914264103544_2968255564349983919_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="523" data-original-width="720" height="232" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjb0LzdWTR8gZOHtLNKcIQ23Ov9kBJdn3Kf5EKzeeIELmjDxHTZspqqShZEM_3WFE7g3Savk1jk1H-dK8xfjL51PBYaFdQzicDiihJff25vP1CGkLxjYpvP8C7i4RYdA6MgGk7OasnA76Q/s320/13903347_926914264103544_2968255564349983919_n.jpg" width="320" /></a></div>
<div style="background-color: white; color: #1d2129; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px; margin-bottom: 6px;">
Tà định là khi tâm nhập vào trạng thái tĩnh lặng nhưng không có được sự ghi nhân nào cả. Bạn có thể ngồi 2 giờ hoặc cả ngày nhưng tâm không hề biết nó đang ở đâu hoặc cái gì đã xảy ra. Bạn chỉ có được sự tĩnh lặng đơn giản như vậy thôi. Nó giống như một con dao bén sắc nhưng rất nguy hiểm khi sử dụng. Đây là loại tĩnh lặng mê mờ vì không có sự hay biết ở đó. Hành giả có thể cho rằng họ đã đạt trạng thái siêu thoát mà không cần tìm hiểu gì n<span class="text_exposed_show" style="display: inline; font-family: inherit;">ữa. Samadhi hay định lực có thể làm kẻ thù hay rào cản ở giai đoạn này. Trí tuệ không thể nào khởi sinh vì không có sự nhận biết đúng sai.</span></div>
<div class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #1d2129; display: inline; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px;">
<div style="font-family: inherit; margin-bottom: 6px;">
Với chánh định thì dù ở mức độ tĩnh lặng nào cũng luôn có sự hay biết. Đây là loại định sẽ làm khởi sinh trí tuệ, bạn không thể để mất nó. Các hành giả nên hiểu rõ điều này. Bạn không nên thực hành nếu không có sự hay biết, nó phải có mặt ngay từ đầu cho tới lúc kết thúc. Đây là loại định lực không có sự nguy hiểm.<br />Trích: Trích The Path and Harmony.<br />Tác giả: Ajahn Chah (vị ngồi giữa)</div>
</div>
thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-1730274929792711842018-07-01T08:46:00.001+07:002018-07-01T08:46:44.958+07:00tự do khỏi cảm xúc<div class="" data-block="true" data-editor="12kau" data-offset-key="6ckil-0-0" style="background-color: white; color: #1d2129; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px; white-space: pre-wrap;">
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhC-MbvUcNSzR1jVikHPPeZE_tto8qsf-PUcfzNmSQxNBES-x6Y1_mugBZZ3C6XMXdPjHYEP3h272LBiiWjm5MAvGrGGsGPUN2jV4KFbCyCuW7AhzXszcQBWh9VNNx27GTrZW1a6mg60yg/s1600/Beginners-Meditation-Techniques.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1061" data-original-width="1600" height="212" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhC-MbvUcNSzR1jVikHPPeZE_tto8qsf-PUcfzNmSQxNBES-x6Y1_mugBZZ3C6XMXdPjHYEP3h272LBiiWjm5MAvGrGGsGPUN2jV4KFbCyCuW7AhzXszcQBWh9VNNx27GTrZW1a6mg60yg/s320/Beginners-Meditation-Techniques.jpg" width="320" /></a></div>
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="6ckil-0-0" style="direction: ltr; font-family: inherit; position: relative;">
<span data-offset-key="6ckil-0-0" style="font-family: inherit;">Hỏi: Khi con không hành Thiền, thì con thấy bình thường. Nhưng khi con có chủ ý là tập trung tư tưởng thì tâm trí rối loạn"</span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="12kau" data-offset-key="3nhod-0-0" style="background-color: white; color: #1d2129; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px; white-space: pre-wrap;">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="3nhod-0-0" style="direction: ltr; font-family: inherit; position: relative;">
<span data-offset-key="3nhod-0-0" style="font-family: inherit;"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="12kau" data-offset-key="1gt0m-0-0" style="background-color: white; color: #1d2129; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px; white-space: pre-wrap;">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="1gt0m-0-0" style="direction: ltr; font-family: inherit; position: relative;">
<span data-offset-key="1gt0m-0-0" style="font-family: inherit;"> Đáp (Sư cô Hương Thiền): Mọi cố gắng để bắt buộc tâm mình an ổn chính là tâm Tham muốn, mong cầu, điều đó lại càng khiến tâm rối loạn</span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="12kau" data-offset-key="el2re-0-0" style="background-color: white; color: #1d2129; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px; white-space: pre-wrap;">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="el2re-0-0" style="direction: ltr; font-family: inherit; position: relative;">
<span data-offset-key="el2re-0-0" style="font-family: inherit;"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="12kau" data-offset-key="4kap6-0-0" style="background-color: white; color: #1d2129; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px; white-space: pre-wrap;">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="4kap6-0-0" style="direction: ltr; font-family: inherit; position: relative;">
<span data-offset-key="4kap6-0-0" style="font-family: inherit;"> Tâm đang rối loạn mà nay lại thêm ý muốn là mình phải làm được cho nó yên lặng, chỉ làm tăng thêm sự rối loạn. </span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="12kau" data-offset-key="1hf11-0-0" style="background-color: white; color: #1d2129; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px; white-space: pre-wrap;">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="1hf11-0-0" style="direction: ltr; font-family: inherit; position: relative;">
<span data-offset-key="1hf11-0-0" style="font-family: inherit;"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="12kau" data-offset-key="ant5m-0-0" style="background-color: white; color: #1d2129; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px; white-space: pre-wrap;">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="ant5m-0-0" style="direction: ltr; font-family: inherit; position: relative;">
<span data-offset-key="ant5m-0-0" style="font-family: inherit;">Biết như vậy, hành giả chỉ cần ghi nhận những ý nghĩ, cảm giác nổi lên mà không nắm giữ chúng như 1 điều mình đang sở hữu, cũng không chối bỏ vì không thich chúng, để chúng tự nhiên chỉ thuần hay biết thì tự chúng sẽ qua đi.</span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="12kau" data-offset-key="mamm-0-0" style="background-color: white; color: #1d2129; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px; white-space: pre-wrap;">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="mamm-0-0" style="direction: ltr; font-family: inherit; position: relative;">
<span data-offset-key="mamm-0-0" style="font-family: inherit;"><br data-text="true" /></span></div>
</div>
<div class="" data-block="true" data-editor="12kau" data-offset-key="blqc9-0-0" style="background-color: white; color: #1d2129; font-family: Helvetica, Arial, sans-serif; font-size: 14px; white-space: pre-wrap;">
<div class="_1mf _1mj" data-offset-key="blqc9-0-0" style="direction: ltr; font-family: inherit; position: relative;">
<span data-offset-key="blqc9-0-0" style="font-family: inherit;">Đó là thiền sinh đã biết tách rời tâm và cảm giác, không để tâm bị cảm giác chi phối. Chúng ta tự do khỏi cảm xúc chính là vậy đó</span></div>
</div>
thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-52140925934077902092018-07-01T08:11:00.003+07:002018-07-01T08:11:41.144+07:00Pháp Thiền của Đại trưởng lão Thiền Sư Ajahn Chah<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgCRxnrYr0FPIDhExOpglwWdlYxTsNt7cCkMIq8R9Mp5DkdPvmt5o8YVGuSRZdJvA1GN5DFPMTiLS4EXOPw3tEbBMPh6T1WEiC06MLLfigTVJpQhW57ycY2cU7EOsXtSvx_JFpTqDCUee0/s1600/download.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="637" data-original-width="960" height="212" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgCRxnrYr0FPIDhExOpglwWdlYxTsNt7cCkMIq8R9Mp5DkdPvmt5o8YVGuSRZdJvA1GN5DFPMTiLS4EXOPw3tEbBMPh6T1WEiC06MLLfigTVJpQhW57ycY2cU7EOsXtSvx_JFpTqDCUee0/s320/download.jpg" width="320" /></a></div>
Cũng như các pháp Thiền khác của Phật giáo Nam Tông nên có thể gọi pháp Thiền của đại đức là vipassana nhưng việc thực hành rất đặc biệt, được mô tả là "đi thẳng vào trọng tâm của Thiền Phật giáo"[4]. Pháp hành Thiền của đại đức giản dị và trực tiếp để định tâm và đạt trí huệ. Những bài thuyết pháp của đại đức đều dản dị, không cầu kỳ với những danh từ khó hiểu, có những thí dụ rất thiết thực nên đại đa số có thể hiểu và hành được, mà vẫn theo đúng Phật pháp thâm sâu. Đại đức không chọn một phương pháp cố định nào mà chỉ tùy theo hành giả mà chỉ dậy. Có người hỏi đại đức tại sao nhiều khi những lời giảng gần như mâu thuẫn nhau thì đại đức nói "Như tôi nhìn người bước đi trên đường, nếu người đó sắp té về rãnh bên phải thì tôi nói họ phải bước qua trái, nếu người đó sắp té về rãnh bên trái thì tôi nói họ phải bước qua phải. Việc tu tập chỉ là giữ cho tâm thăng bằng, không chấp vào gì cả, cần buông xả hết." [4]<br />
<br />
Đại cương pháp tu là theo dõi hơi thở ra vào cho đến khi tâm an định, sau đó quán xét sự diễn tiến của thân, tâm để thấy rõ tính cách Vô thường, Khổ, Vô ngã của chúng. Sự theo dõi, thấy biết (awareness) một cách tự nhiên về hơi thở cũng như về sự diễn tiến (sinh, trụ, diệt) của thân, tâm là điều căn bản của pháp Thiền này. Cần giữ sự hằng biết (mindfulness), tức sự thấy biết đó một cách liên tục, không bị ngoại cảnh cũng như những ý nghĩ lăng xăng làm gián đoạn. Theo đại đức thì đạo Phật chủ yếu là tu tâm để đạt đến giác ngộ, giải thoát. Tu tâm đây không chỉ riêng có nghĩa đơn giản là làm điều thiện, tránh điều ác, mà là nhìn thẳng vào tâm, quán xét cho kỹ để biết rõ sự hoạt động và bản tính của nó. Muốn tu tâm thì hành giả phải tự cố gắng, kiên trì chứ không có đấng thần linh nào làm thay mình được. Nhưng mỗi người có một tâm khác nhau nên cũng khó nói có một pháp nào áp dụng cho tất cả mọi người được, vì vậy đức Phật đã chỉ nhiều pháp khác nhau để mỗi người tùy căn cơ áp dụng. Như trong kinh Tứ Niệm Xứ (Pali: Satipatthana Sutta), là kinh căn bản của Thiền Vipassana, có kể đến nhiều pháp hành khác nhau chứ không định rõ một pháp riêng biệt nào. Vì vậy chúng ta không nên ngạc nhiên khi cùng một tên gọi là Vipassana mà phương pháp của mỗi vị tăng có thể thấy như khác nhau mặc dầu cùng chung một mục đích.<br />
<br />
Tu Chỉ<br />
<br />
Pháp Thiền Phật giáo nào cũng khởi đầu bằng tu Chỉ (Samatha) để tập cho tâm yên tĩnh rồi mới tiến đến tu Quán. Pháp tu của Ajahn Chah rất là thực tế, dễ hiểu nên nhiều người có thể áp dụng được. Theo đại đức thì bước đầu cần áp dụng pháp "theo dõi hơi thở" (Anapanasati) bằng cách chú ý vào chóp mũi hoặc môi trên gần chân mũi, để thấy rõ hơi thở ra, hơi thở vào ở nơi đó. "Điểm chánh là phải ghi thấy rõ hơi thở trong khi thiền, như vậy hành giả hằng biết lúc nào hơi thở ra và lúc nào hơi thở vào.Khi bước đi thì thấy rõ cảm giác khi chân chạm đất."[1] Lúc đầu nếu chưa chú tâm được thì có thể theo dõi hơi thở vào đi qua mũi, ngực, bụng, còn hơi thở ra từ bụng lên ngực và mũi. Sau khi đã có tiến bộ về sự chú tâm thì chỉ cần theo dõi hơi thở ở mũi thôi. Trong bước đầu mà sự chú tâm còn yếu thì có thể dùng câu chú "Bud-dho" mỗi khi hơi thở vào và ra. Cũng có thể niệm "Dharmo" hoặc "Sangho"[3]. Câu chú chỉ có mục đích chú tâm chứ không có mục đích nào khác nên đại đức nói là có thể dùng câu nào khác cũng được[1]. Điều cần là phải tập cho đều thì mới có kết quả tốt. Khi đang theo dõi hơi thở nếu có ý nghĩ khác chợt đến thì cần gạt đi để chỉ thấy biết có hơi thở. "Đừng nghĩ đến điều gì hết - chỉ theo dõi hơi thở",[1] đó là điều mà đại đức nhắc nhiều lần. Trong khi tu Chỉ thì "Đừng nghĩ" đây không phải là chỉ nói riêng đến những ý nghĩ lăng xăng vô ích mà ngay cả những ý nghĩ như cố giữ cho tâm an tịnh, như cố gắng để chứng đắc, hoặc cố giữ cho đừng có ý nghĩ nào nổi lên[3]. Điều khó khăn khi bắt đầu tu Chỉ là hành giả muốn tâm yên tĩnh để chú tâm theo dõi hơi thở nhưng những ý nghĩ không đâu vẫn ào ào nổi dậy, mặc dù có đem hết ý chí cương quyết để dẹp bỏ mà không được. Hành giả trở nên chán nản vì cái tâm "bất trị" và cho rằng không thể nào tu được. Đại đức thấy rõ điều này nên trong nhiều bài giảng đã chỉ kỹ càng. Điều cần trước hết là phải kiên trì tiếp tục vì tu tập lâu ngày sẽ có kết quả tốt chứ không thể muốn gì cũng cấp tốc, tức khắc. Điểm chánh là cần biết nhìn thẳng vào tâm mình để hiểu nó thì mới có kết quả được. Cái tâm chưa được luyện tập thì đặc tính tự nhiên của nó là vọng động, chạy chỗ này, chạy chỗ kia, không lúc nào ngừng. Đặc tính của tâm phàm là vậy, mình đang sống với phiền não thì tâm đó không ngừng dao động. Thấy được tánh chất của tâm phàm là vậy thì mình sẽ không thấy khổ sở và chán nản khi muốn trị nó ngay mà không được. Thấy điều đó là đã bắt đầu nhìn rõ "như thực", tức vạn vật thế nào, thấy được như vậy. Lúc đó hành giả có thể nói: "À thì ra tâm vọng nó là như vậy." Hành giả sẽ không còn thấy cần phải chống đối với nó nữa. Sau đó hành giả chỉ cần "theo dõi" hơi thở, tức là chỉ thấy biết một cách tự nhiên, không phải chủ ý điều khiển hơi thở, cũng không phải là tập trung tư tưởng. Đại đức kể kinh nghiệm riêng: "Khi tôi không làm gì đặc biệt hết và tôi không đang hành Thiền, thì tôi thấy bình thường. Nhưng khi tôi có chủ ý là tập trung tư tưởng thì tâm trí tôi rối loạn. Mọi cố gắng để bắt buộc tâm mình an tĩnh chỉ là biểu thị sự bám chấp và mong cầu, điều đó lại càng khiến tâm rối loạn"[2]. Tâm đang rối loạn mà nay lại thêm ý muốn là mình phải trị cho nó yên lặng, chỉ làm tăng thêm sự rối loạn. Nói như vậy không phải là hành giả cứ ngồi yên để các phiền não tiếp tục khuấy động như trước. Chính lúc hành giả thấy rõ những cảm giác, ý nghĩ lăng xăng nổi lên và hiểu rằng chúng chỉ là trạng thái tự nhiên của tâm vọng thì sẽ thấy là chúng không có một thực thể mà chỉ là hiện tượng do duyên nào đó tạo ra thôi và do mình bám níu mà có. Thí dụ như khi đang ngồi Thiền mà có tiếng động nào đó làm mình cảm thấy bực tức, khổ sở. Thực ra tiếng động tự nó đâu có ý thức muốn gây phiền não cho hành giả. Mà chính là tâm hành giả đã tạo ra phiền não đó. Tiếng động là một hiện tượng ở ngoài, mà tâm hành giả đã thọ nhận rồi tạo ra sự bực tức. Chỉ cần coi tiếng động là tiếng động, tâm mình là tâm mình, không bám níu, không chấp vào đó thì mọi sự an bình. Biết như vậy, hành giả chỉ cần ghi nhận những ý nghĩ, cảm giác nổi lên mà không chạy theo, bám níu chúng thì tự chúng sẽ qua đi, sau đó hành giả tiếp tục chú tâm vào việc theo dõi hơi thở. Đó là hành giả đã biết tách rời tâm và cảm giác, không để tâm bị cảm giác chi phối. "Cảm giác" (feeling, danh từ Pali là Vedana, tức Thọ) dùng theo nghĩa của đại đức là những tâm trạng khởi lên khi ngoại cảnh hoặc hình bóng ngoại cảnh qua sáu căn, tác động vào tâm.[2] Ngay những lúc không ngồi Thiền, hành giả vẫn theo dõi tâm trạng của mình đễ biết rõ chúng đang ở trạng thái nào, đang bị những cảm giác nào chi phối. Biết chúng nhưng không để chúng chi phối tâm mình. Khi sự chú tâm đã thuần thục thì tâm sẽ trở nên an tịnh. Pháp tu này có lợi là khi có sự hằng biết, tức là chú tâm một cách liên tục, thì tâm vẫn giữ được an tịnh ngay trong mọi tư thế như đi, đứng, nằm, ngồi chứ không phải chỉ an tịnh khi ngồi Thiền, còn khi đi, đứng thì tâm lại rối bời như trước. Mục đích của tu Chỉ là đạt được Định. Đại đức cũng lưu ý những hành giả khi đã đạt được Định trở nên mê mải, hài lòng và tự mãn với tình trạng đó: "Khi hằng biết về mọi tác động và hoạt động của mình thì hành giả đạt được tâm an định và trong sáng. Nhưng cái an định này không phải là mục đích cuối cùng của việc tu hành. Tình trạng an định giúp cho tâm tạm thời yên tịnh, cũng như ăn thì tạm thời làm hết cơn đói lúc đó, nhưng không phải chỉ có thế là đủ. Hành giả cần biết dùng tâm an định đó để nhìn sự vật dưới một ánh sáng mới, ánh sáng của Trí huệ." [3]<br />
<br />
<br />
<br />
Tu Quán<br />
<br />
Khi tâm đã an định thì bỏ sự chú tâm theo dõi hơi thở và bắt đầu tu quán (vipassana). Quán rõ thân và tâm này chỉ là năm uẩn (khandhas) tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức hợp thành. Quán rõ các uẩn đó sinh, trụ và diệt như thế nào và thấy rõ tính cách của chúng là Vô thường, Khổ và Vô ngã (Anicca, Dukkha, Anatta). Thấy rõ được như vậy là thấy chân lý về thân và tâm, tức là đạt được trí huệ (wisdom). Nhiều người có quan niệm không đúng khi cho rằng có Định là đương nhiên có Huệ. Ngoại đạo hay tà đạo cũng đạt tới mức Định cao nhưng vẫn không đạt được Huệ. Theo pháp Thiền này, khi biết quán đúng thì hành giả thấu hiểu được bản chất của tâm, thấy rõ tâm đó vốn thanh tịnh, chỉ có những cảm giác sướng, khổ nổi lên. Vì vậy như khi hành giả cảm thấy khổ, thì chỉ cần ghi nhận có cảm giác khổ xẩy ra chứ không đồng hóa tâm mình với cảm giác đó. Hành giả không còn thấy muốn bám níu vào cảm giác nào, dù cảm giác sướng cũng vậy. Chỉ cần ghi biết có một cảm giác hiện ra, biết cảm giác đó sẽ theo luật vô thường là nó đến rồi sẽ biến đi, đồng hóa với nó là chuốc lấy khổ, vì vậy chẳng bám mà cũng chẳng cần diệt nó. Thông thường chúng ta thấy điều nào hay thì giữ lại, nhưng tu Thiền thật sự là dù điều hay, điều dở cũng bỏ hết. "Cuối cùng thì phải ném đi hết. Nếu điều nào sai, ném đi; điều nào đúng, cũng ném luôn."[2] Khi đã đạt Huệ thì thấy rõ tất cả những điều như sướng/khổ, yêu/ghét, vui/buồn, phải/trái, hơn/thua .... đều chỉ là những cảm giác, có tính cách Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã nên đều đáng buông xả hết. Pháp Thiền này là: "Trước hết, biết chú tâm theo dõi hơi thở là tu Giới (Sila), theo dõi hơi thở cho đến khi tâm định là tu Định (Samadhi), quán thấy hơi thở có tính cách Vô thường, Khổ và Vô ngã và không còn tham luyến gì là tu Huệ (Panna)".[1] Tu được Giới, Định, Huệ là đã tu Bát Chánh Đạo (Eightfold Path), là con đường Giải thoát. "Người nào tu hành và đạt được chân lý này thì người đó sẽ thành Phật."[2] Đại đức nói thành "Phật" là thành "người giác ngộ" (One Who Knows), danh từ này thường được nhắc nhở nhiều lần. Đại đức cũng giảng: "Thấy Thiên nhiên (Nature) là thấy Pháp, thấy Pháp là thấy Thiên nhiên. Pháp là Thiên nhiên, cho nên không có gì mà không phải là Pháp." [2] "Tâm là Pháp" (The mind is Dhamma)[2] Thiên nhiên đây có nghĩa là tất cả các sự vật về vật chất cũng như về tinh thần. Vì vậy tu hành là biết rõ tâm này, cũng là biết các Pháp. Cũng có thể hiểu chữ Nature (do các tác giả dịch từ tiếng Thái lan ra) theo từ ngữ Thiền tông là Tánh, tức bản thể của mọi vật. Việc tìm tòi, học hỏi kinh điển chỉ là phương tiện để biết tâm này thôi. Tại mỗi khóa Thiền, đại đức thường yêu cầu các thiền sinh dẹp bỏ tất cả sách vở, dù là kinh điển, để chỉ chú tâm vào việc tu tập, quán xét, tìm hiểu tâm mình. Đại đức không bác bỏ kinh điển, mà chỉ muốn cho chúng ta không nên quá chú tâm vào việc tìm hiểu kinh điển mà không chú ý tới việc thực nghiệm tu hành. Những điểm căn bản của giáo lý vẫn thường được đại đức nhắc nhở nhưng không quá chi tiết về những từ ngữ cao xa, bóng bẩy hay huyền bí. "Sự hiểu biết do hành Thiền với một tâm an tịnh khác xa với sự hiểu biết do học hỏi."[2]"Đừng đọc sách! Hãy đọc ngay tâm mình. [1]" "Phật pháp không phải là ở trong sách. Nếu muốn thực sự thấy lời Phật dạy thì đừng tìm ở trong sách. Hãy quán xét ngay chính tâm mình. Quán xem các cảm giác đến và đi, các ý nghĩ đến và đi. Đừng bám níu vào bất cứ cái gì. [4]" Tuy vậy cũng nên lưu ý là nếu không may mắn được gặp những vị thầy chân chánh, như Ajahn Chah, mà gặp những thầy tà, ngoại đạo rồi chê bai kinh điển thì không khỏi lầm đường, lạc lối.<br />
<br />
Tóm tắt<br />
<br />
"Yếu chỉ của việc tu hành rất là giản dị, không cần phải giải nghĩa dài dòng. Buông xả mọi điều yêu và ghét, mọi sự vật thế nào thì chỉ coi chúng như vậy. Đó là tất cả kinh nghiệm của bản thân tôi. Đừng cố để "trở thành" một cái gì. Đừng biến đổi mình thành một cái gì. Đừng coi mình như một người đang hành Thiền. Đừng muốn trở thành người giác ngộ. Khi ngồi, chỉ biết ngồi, khi đi chỉ biết đi. Không bám chấp vào bất cứ gì. Không chống chọi lại bất cứ gì."[3] Lời giảng mới nghe thì thật khó hiểu nhưng đã biểu lộ sự thâm sâu pháp Thiền của đại đức. Khó hiểu vì người nào khi tu hành cũng muốn thành công, đạt được mục đích nào đó và cũng hiểu là khi tu thì phải bỏ những tật xấu, lỗi lầm xưa nay để được cái gì cao quý hơn. Nhưng theo những lời giảng đó thì đại đức cho rằng tu như vậy là sai lầm cả sao. Tuy vậy nếu coi kỹ thì thấy những lời đó không sai lạc với lời dạy của đức Phật trong kinh 'Bốn mươi hai chương': "Cúng một trăm người thiện không bằng cúng một người trì năm giới. .... Cúng một trăm triệu đức Phật, không bằng cúng một vị vô niệm, vô trụ, không tu, không chứng." 'Không tu' là không thấy có gì để mình trở thành, 'không chứng' là không thấy có gì để chứng. Kinh Pháp Hoa chỉ rõ tất cả chúng sinh đều sẵn có Tri kiến Phật, tức Phật tánh, không phải là tu hành rồi mới có. Mà nói sẵn có thì đâu có phải khi tu là được, là đắc gì. Nhưng hiểu như thế thì những người không tu hành hoặc lười biếng tu hành có cớ vin vào đó để không tu thì thật là hết sức sai lầm. Ngoài ra còn có những người đã tu hành tới mức nào đó mà tự mãn cho như thế là mình đã chứng đắc rồi. Còn thấy có "mình" tức còn chấp Ngã, thấy có "chứng đắc" tức còn chấp Pháp, như vậy chưa thể nói là tới chỗ cứu cánh đượcthiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-6081985001742949362018-06-28T10:49:00.000+07:002018-06-28T10:49:08.639+07:00Kinh Thiện Sanh: Lời Phật dạy về đạo làm người<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_5U1Tx5mHyrVA7PoueZadblPyqob4hMCQrgx0HHbJKa6zCdF57FuVzfr4i_56UYl_UI1bKUta-L06QV_mANJty_JzL-AFssQDQjzAyJIp6nOGFU32X8a_vLNy8YICL72TcdicWWCzXNc/s1600/1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="480" data-original-width="852" height="180" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_5U1Tx5mHyrVA7PoueZadblPyqob4hMCQrgx0HHbJKa6zCdF57FuVzfr4i_56UYl_UI1bKUta-L06QV_mANJty_JzL-AFssQDQjzAyJIp6nOGFU32X8a_vLNy8YICL72TcdicWWCzXNc/s320/1.jpg" width="320" /></a></div>
Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta biết cách giữ gìn các mối quan hệ đó một cách tốt đẹp, ở đó ta thấy được các quan hệ được Phật dạy đều theo hai chiều rất tinh tế.<br />
<br />
<br />
Bấy giờ, đã đến lúc đức Thế Tôn khoác y – bát lên đường vào thành khất thực, trên đường đi, đức Thế Tôn thấy một chàng thanh niên đang lễ bái, là người con có hiếu nên nghe theo lời dạy của cha trước khi mất, cứ mỗi sáng, sau khi tắm gội xong anh ta ra đường thực hành việc lễ bái sáu phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới. Cuộc gặp gỡ là duyên khởi cho bản kinh Thiện Sanh ra đời.<br />
<br />
<br />
Đây là một bản kinh nguyên thủy, ngắn gọn, ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách thực thi các bổn phận và trách nhiệm của người Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng hơn là Phật dạy cách kiến tạo một xã hội hài hòa, một cuộc sống đầy an lành và hạnh phúc.<br />
<br />
Trong tạng A-hàm, theo bản dịch Việt từ Hán mới nhất của Thượng tọa Tuệ Sỹ thì Kinh Thiện Sanh thuộc No.16, Phần II, Trường A-hàm. Trong tạng Nikaya, theo bản dịch Việt từ Pali của Hòa Thượng Thích Minh Châu, tương đương kinh Thiện Sanh là Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt (Sigàlovàda sutta) thuộc No.31, Trường Bộ Kinh. Bài viết chủ yếu trích từ ấn bản điện tử từ trang nhà Phatviet.com của TT.Tuệ Sỹ, tất cả các đoạn trích đều được đóng mở “.”, phần lễ bái sáu phương, hầu hết lấy nguyên văn trong kinh.<br />
<br />
Tránh bốn việc ác và sáu việc làm hao tổn tài sản<br />
<br />
<br />
Khi Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, dẫn đầu đoàn khất thực với đại chúng hai ngàn năm trăm vị Tỳ-Kheo đi vào thành, đức Thế Tôn thấy một gia chủ tử tên Thiện Sanh đang lễ sáu phương, Ngài hỏi:<br />
<br />
“Vì sao, ngươi vào buổi sáng sớm ra khỏi thành, đi đến khu công viên, với cả người còn ướt đẫm, mà ngươi lại lạy các phương như thế?”<br />
<br />
Thiện Sinh bạch Phật:<br />
<br />
“Khi cha con sắp chết có dặn: “Nếu con muốn lạy, trước hết hãy lạy các phương Đông,Tây, Nam, Bắc, trên và dưới”. Con vâng lời cha dạy không dám chống trái”.<br />
<br />
Phật bảo Thiện Sanh:<br />
<br />
“Này con trai trưởng giả! Quả có cái tên các phương đó chứ không phải không. Nhưng trong pháp Hiền Thánh của ta chẳng phải lễ sáu phương như thế là cung kính đâu”.<br />
<br />
Thiện Sinh thưa:<br />
<br />
“Cúi xin đức Thế Tôn thương dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp Hiền Thánh”.<br />
<br />
Phật bảo Thiện Sinh:<br />
<br />
“Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương”.<br />
<br />
Bốn nghiệp kết mà Phật dạy: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, đây là bốn điều xấu ác mà bất cứ ai cũng nên tránh, hàng ngày đọc báo chúng ta vẫn thường thấy nhan nhãn các tội phạm phạm bốn điều trên: giết người, cướp của… gây cho xã hội những bất an thường nhật. Rõ thấy, những điều mà Phật dạy chẳng có gì khác ngoài những chuyện thực thường ngày ở thế gian.<br />
<br />
Bốn trường hợp ác: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) khiến cho tâm trí mê mờ, dẫn đến những vọng tưởng điên đảo, sân hận, sợ hãi và ngu si… loại tham dục này thì cần phải loại bỏ, loại tham dục thứ hai phục vụ cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp… cho sự học hành, phát triển nhân cách, tinh thông trí tuệ, nâng cao dân trí, sự phồn thịnh xã hội, sự bình an, sự hạnh phúc... thì cần thực hành và phát huy.<br />
<br />
Sáu nghiệp hao tổn tài sản cần tránh:<br />
<br />
1. Đam mê rượu chè.<br />
<br />
2. Cờ bạc.<br />
<br />
3. Phóng đãng.<br />
<br />
4. Đam mê kỹ nhạc.<br />
<br />
5. Kết bạn người ác.<br />
<br />
6. Biếng lười.<br />
<br />
Phật bảo Thiện Sinh:<br />
<br />
“Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả biết rõ bốn kết hành không làm ác theo bốn trường hợp, lại biết sáu nghiệp tổn tài ấy là, này Thiện Sinh, tránh được bốn trường hợp, cúng dường sáu phương, thì đời này tốt đẹp, đời sau tốt đẹp; đời này căn cơ và đời sau căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả báo bậc nhất; sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện”.<br />
<br />
Như vậy, Phật dạy người nào tránh được bốn nghiệp kết, bốn việc ác, sáu nghiệp hao tổn tài sản thì không những đời này đẹp và cả đời sau cũng được hưởng những quả tốt đẹp, đời này có duyên lành và đời sau cũng có duyên lành, trong hiện tại được người ngợi khen, xã hội ngợi khen, gia đình ngợi khen và trên hết phương ấy được an ổn, xã hội ấy được tốt đẹp, không lo sợ…<br />
<br />
“Người nào không làm ác,<br />
<br />
Do tham, hận, sợ, si,<br />
<br />
Thì danh dự càng thêm,<br />
<br />
Như trăng hướng về rằm”.<br />
<br />
Bốn hạng kẻ thù và bốn hạng người đáng thân<br />
<br />
Trong Trung Hoa Kim Cổ Kỳ Nhân có thuật lại tình bạn giữa Bá Nha – Tử Kỳ, một tình bạn đẹp lưu danh muôn thuở. Bá Nha là một vị quan làm đến chức Thượng đại phu, còn Tử kỳ chỉ là một chàng nông dân kém Bá Nha chục tuổi. Nhưng chỉ mỗi Bá Nha hiểu được tiếng đàn của Tử Kỳ, từ đó hai người trở thành tri kỷ, khi nghe tin Tử Kỳ chẳng may qua đời, Bá Nha đã cầm đờn đập mạnh vào tảng đá,cây đờn vỡ tan, sau đó đọc bốn câu thơ:<br />
<br />
“Dao cầm đập nát đau lòng phượng,<br />
<br />
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai?<br />
<br />
Gió xuân bốn mặt, bao bè bạn.<br />
<br />
Muốn tìm tri âm, thật khó thay!”<br />
<br />
Trong cuộc sống ai cũng cần có bạn, tình bạn kiểu Bá Nha – Tử Kỳ thuộc dạng xưa nay hiếm, nhưng cũng cần phải lựa bạn tốt mà chơi, vì nếu “giao du với bạn xấu có sáu lỗi: 1, tìm cách lừa dối; 2, ưa chỗ thầm kín; 3, dụ dỗ vợ người; 4, mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người; 5, xoay tài lợi về mình; 6, ưa phanh phui lỗi người”. Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu chúng ta làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.<br />
<br />
Phật bảo Thiện Sanh.<br />
<br />
“Có bốn hạng kẻ thù mà như người thân, ngươi nên biết. Bốn kẻ ấy là những ai? 1, hạng uý phục; 2, hạng mỹ ngôn; 3, hạng kính thuận; 4, hạng ác hữu.<br />
<br />
[(1) “Hạng úy phục thì thường hay làm bốn việc: một, cho trước đoạt lại sau; hai, cho ít mong trả nhiều; ba, vì sợ gượng làm thân; bốn, vì lợi gượng làm thân.<br />
<br />
(2) “Hạng mỹ ngôn thì thường hay làm bốn việc: một, lành dữ đều chiều theo; hai, gặp hoạn nạn thì xa lánh; ba, ngăn cản những điều hay; bốn, thấy gặp nguy tìm cách đùn đẩy.<br />
<br />
(3) “Hạng kính thuận thì thường làm bốn việc: một, việc trước dối trá; hai, việc sau dối trá; ba, việc hiện dối trá; bốn, thấy có một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt".<br />
<br />
(4) “Hạng bạn ác thì thường làm bốn việc: một, bạn lúc uống rượu; hai, bạn lúc đánh bạc; ba, bạn lúc dâm dật; bốn bạn lúc ca vũ.”<br />
<br />
“Có bốn hạng người thân đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn? Một, ngăn làm việc quấy; hai, thương yêu; ba, giúp đỡ; bốn, đồng sự. Đó là bốn hạng người thân đáng thân cận”.<br />
<br />
1) Này Thiện Sinh, hạng ngăn quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở: thấy người làm ác thì hay ngăn cản, chỉ bày điều chánh trực, có lòng thương tưởng, chỉ đường sinh Thiên. Đó là bốn trường hợp ngăn cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.<br />
<br />
(2) Hạng thương yêu thì thường làm bốn việc: Mừng khi mình được lợi, lo khi mình gặp hại, ngợi khen đức tốt mình, thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản. Đó là bốn điều thương yêu đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.<br />
<br />
(3) Hạng giúp đỡ có bốn việc. Những gì là bốn? Đó là: che chở mình khỏi buông lung, che chở mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở mình khỏi sợ hãi, khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.<br />
<br />
(4) Hạng đồng sự thì thường làm bốn việc: không tiếc thân mạng với bạn, không tiếc của cải với bạn, cứu giúp bạn khỏi sợ hãi, khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.”]<br />
<br />
Lễ bái sáu phương hay cách thức xây dựng một xã hội hạnh phúc<br />
<br />
Sáu phương là gì, tại sao phải lễ bái sáu phương như chàng Thiện Sanh đã làm, anh ta làm vì nghe lời cha mà không hiểu ý nghĩa của việc lễ bái đó. Phật dạy: “Sáu phương là gì? Phương Đông là cha mẹ, phương Nam là sư trưởng, phương Tây là thê thiếp, phương Bắc là bạn bè thân thích, phương trên là các bậc trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn, phương dưới là tôi tớ”. Bài dạy lễ sáu phương là cách mà Phật dạy đạo làm người.<br />
<br />
Đạo hiếu làm con, phận làm cha mẹ.<br />
<br />
Kẻ làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều:<br />
<br />
1. Cung phụng không để thiếu thốn.<br />
<br />
2. Muốn làm gì thưa cha mẹ biết.<br />
<br />
3. Không trái điều cha mẹ làm.<br />
<br />
4. Không trái điều cha mẹ dạy.<br />
<br />
5. Không cản chánh nghiệp mà cha mẹ làm.<br />
<br />
Kẻ làm cha mẹ phải lấy năm điều này chăm sóc con cái:<br />
<br />
1. Ngăn con đừng để làm ác.<br />
<br />
2. Chỉ bày những điều ngay lành.<br />
<br />
3. Thương yêu đến tận xương tủy.<br />
<br />
4. Chọn nơi hôn phối tốt đẹp.<br />
<br />
5. Tùy thời cung cấp đồ cần dùng..<br />
<br />
Này Thiện Sinh, kẻ làm con kính thuận và cung phụng cha mẹ, cha mẹ thương con, bảo bọc cho con thế thì gia đình ấy được hạnh phúc, xã hội bình an, phương ấy được an ổn không có điều lo sợ.<br />
<br />
Đạo nghĩa thầy trò<br />
<br />
Đệ tử cung phụng sư trưởng có năm điều:<br />
<br />
1. Hầu hạ cung cấp điều cần.<br />
<br />
2. Kính lễ cúng dường.<br />
<br />
3. Tôn trọng quí mến.<br />
<br />
4.Thầy có dạy bảo điều gì không trái nghịch.<br />
<br />
5. Thầy có dạy bảo điều gì nhớ kỹ không quên. Kẻ làm đệ tử cần phải thờ kính sư trưởng với năm điều ấy.<br />
<br />
Thầy cũng có năm điều để săn sóc đệ tử:<br />
<br />
1. Tùy thuận pháp mà huấn luyện.<br />
<br />
2. Dạy những điều chưa biết.<br />
<br />
3. Giải nghĩa rành rõ những điều trò hỏi.<br />
<br />
4. Chỉ cho những bạn lành.<br />
<br />
5. Dạy hết những điều mình biết không lẫn tiếc.<br />
<br />
Nếu đệ tử kính thuận, cung kính nghe lời sư trưởng, thầy thì thương trò, chỉ bảo dạy dỗ tận tình cho học trò thì nền giáo dục xã hội ấy phát triển, phương ấy vững bền, an ổn không có điều lo sợ.<br />
<br />
Đạo nghĩa vợ chồng<br />
<br />
Chồng phải có năm điều đối với vợ<br />
<br />
1. Lấy lễ đối đãi nhau.<br />
<br />
2. Oai nghiêm không nghiệt.<br />
<br />
3. Tùy thời cung cấp y, thực.<br />
<br />
4. Tùy thời cho trang sức.<br />
<br />
5. Phó thác việc nhà.<br />
<br />
Vợ cũng phải lấy năm việc cung kính đối với chồng<br />
<br />
<br />
1. Dậy trước.<br />
<br />
2. Ngồi sau.<br />
<br />
3. Nói lời hòa nhã.<br />
<br />
4. Kính nhường tùy thuận.<br />
<br />
5. Đón trước ý chồng.<br />
<br />
“Chồng đối với vợ thương yêu, tôn trọng, vợ đối với chồng cung kính đối đãi nhau, như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.<br />
<br />
Quan hệ bạn bè, tình làng nghĩa xóm<br />
<br />
Người ta phải lấy năm điều thân kính đối với bà con<br />
<br />
1. Chu cấp.<br />
<br />
2. Nói lời hiền hòa.<br />
<br />
3. Giúp ích.<br />
<br />
4. Đồng lợi.<br />
<br />
5. Không khi dối.<br />
<br />
Bà con cũng phải lấy năm điều đối lại<br />
<br />
1. Che chở cho mình khỏi buông lung.<br />
<br />
2. Che chờ cho mình khòi hao tài vì buông lung.<br />
<br />
3. Che chở khỏi sự sợ hải.<br />
<br />
4. Khuyên răn nhau lúc ở chỗ vắng người.<br />
<br />
5. Thường ngợi khen nhau.<br />
<br />
“Tình người, tình làng nghĩa xóm, biết thân kính bà con như vậy thì phương ấy được yên ổn không điều chi lo sợ”.<br />
<br />
Quan hệ chủ tớ, trên dưới<br />
<br />
Này Thiện Sinh, chủ đối với tớ có năm điều để sai bảo<br />
<br />
1. Tùy khả năng mà sai sử.<br />
<br />
2. Tùy thời cho ăn uống.<br />
<br />
3. Phải thời thưởng công lao.<br />
<br />
4. Thuốc thang khi bệnh.<br />
<br />
5. Cho có thời giờ nghỉ ngơi.<br />
<br />
Tôi tớ phải lấy năm điều phụng sự chủ:<br />
<br />
1. Dậy sớm.<br />
<br />
2. Làm việc chu đáo.<br />
<br />
3. Không gian cắp.<br />
<br />
4. Làm việc có lớp lang.<br />
<br />
5. Bảo tồn danh giá chủ.<br />
<br />
“Này Thiện Sinh, nếu chủ đối với tớ được như vậy thì phương ấy được an ổn không điều chi lo sợ”.<br />
<br />
Quan hệ giữa đàn việt với Sa-môn<br />
<br />
Kẻ đàn việt cung phụng hàng Sa-môn với năm điều.<br />
<br />
1. Thân hành từ.<br />
<br />
2. Khẩu hành từ.<br />
<br />
3. Ý hành từ.<br />
<br />
4. Tùy thời cúng thí.<br />
<br />
5. Không đóng cửa khước từ.<br />
<br />
Sa-môn, Bà-la-môn cũng khuyên dạy theo sáu điều:<br />
<br />
1. Ngăn ngừa chớ để làm ác.<br />
<br />
2. Chỉ dạy điều lành.<br />
<br />
3. Khuyên dạy với thiện tâm.<br />
<br />
4. Cho nghe những điều chưa nghe.<br />
<br />
5. Những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ.<br />
<br />
6. Chỉ vẻ con đường sanh thiên.<br />
<br />
“Này Thiện Sinh, nếu đàn việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.<br />
<br />
Bấy giờ Thiện Sinh bạch Phật:<br />
<br />
“Lành thay, bạch Thế Tôn! Thật quá chỗ mong ước của con xưa nay, vượt xa những lời dạy của cha con. Như lật ngửa những gì bị úp xuống; như mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy. Những gì được Như Lai thuyết giảng cũng như thế; bằng vô số phương tiện khai ngộ cho kẻ ngu tối; làm rõ pháp thanh bạch. Phật là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, do đó có thể chỉ bày, hướng dẫn cho đời. Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi xin đức Thế Tôn chấp thuận cho con được làm ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con nguyện không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.”<br />
<br />
Đọc toàn bộ nội dung kinh, một bản kinh ngắn, súc tích, ngôn ngữ Phật dùng rất rõ ràng mà bất cứ ai đọc cũng có thể nắm bắt, lời dạy như luồng sáng mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy, rất thiết thực, căn bản, rất cần cho chúng ta trong ứng xử với các mối quan hệ thường ngày trong cuộc sống.<br />
<br />
Các pháp đều nương với nhau mà tồn tại, cũng vậy, mỗi người trong cuộc sống cũng đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm về một điều gì đó với một ai đó, mỗi một ai đó sẽ là phần còn lại về nghĩa vụ và trách nhiệm của người nào đó, suy ra sẽ nhìn thấy một ma trận ngang dọc, ma trận vuông tròn các quan hệ. Quan hệ cha mẹ, con cái, ai cũng ít nhất một lần làm học trò, ai cũng ít nhất có một người bạn, ai cũng phải làm một việc gì đó để sống… vì vậy cần phải ứng xử sao cho hợp đạo hợp nghĩa, đúng mực để tự bảo vệ bản thân tức là bảo vệ cho gia đình, cho xã hội.<br />
<br />
Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta biết cách giữ gìn các mối quan hệ đó một cách tốt đẹp, ở đó ta thấy được các quan hệ được Phật dạy đều theo hai chiều rất tinh tế, như đời: “đường hai nẻo xuống lên”.<br />
<div>
<br /></div>
thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-64516977374415627932018-06-27T19:09:00.002+07:002018-06-27T19:09:58.854+07:00. Kinh Niệm xứ (Satipatthàna sutta)<br />
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhBlp9JPHkvlhzGShXhjdFhhzW_OhSA2zXAoH_Zb8lCPNssC90IOO_7HORHGqwG5fbcXJwqFEAl0OPiJZSopF6GjBym8IKpJfwWNlw8nGfaW01uufyctwkUx0591rdjr_jsdDeusQS82ZI/s1600/1978772_1588533324699731_2117846063943902777_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="414" data-original-width="552" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhBlp9JPHkvlhzGShXhjdFhhzW_OhSA2zXAoH_Zb8lCPNssC90IOO_7HORHGqwG5fbcXJwqFEAl0OPiJZSopF6GjBym8IKpJfwWNlw8nGfaW01uufyctwkUx0591rdjr_jsdDeusQS82ZI/s320/1978772_1588533324699731_2117846063943902777_n.jpg" width="320" /></a></div>
Như vầy tôi nghe.<br />
<br />
Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammassadhamma (kiềm-ma sắt đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:<br />
-- Này các Tỷ-kheo.<br />
<br />
Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn:<br />
-- Bạch Thế Tôn.<br />
<br />
Thế Tôn thuyết như sau:<br />
-- Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.<br />
<br />
Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.<br />
<br />
(Quán thân)<br />
<br />
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri: "Tôi quay dài" hay khi quay ngắn, tuệ tri: "Tôi quay ngắn". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.<br />
<br />
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.<br />
<br />
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi, tuệ tri: "Tôi đi", hay đứng, tuệ tri: "Tôi đứng", hay ngồi, tuệ tri: "Tôi ngồi", hay nằm, tuệ tri: "Tôi nằm". Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy tuệ tri thân như thế ấy.<br />
<br />
Vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay vị ấy sống quán thân trên ngoại thân; hay vị ấy sống quán thân trên nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.<br />
<br />
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mang áo Sanghati (Tăng già lê), mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rõ việc mình đang làm.<br />
<br />
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.<br />
<br />
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: "Ðây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu". Này các Tỷ-kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: "Ðây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: "Ðây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu".<br />
<br />
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.<br />
<br />
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về các vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: "Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại". Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đổ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và về sự sắp đặt các giới: "Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại".<br />
<br />
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.<br />
<br />
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".<br />
<br />
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.<br />
<br />
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".<br />
<br />
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.<br />
<br />
Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại... với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại... với các bộ xương không còn dính thịt, dính máu, còn được các đường gân cột lại, chỉ còn có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".<br />
<br />
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.<br />
<br />
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn ba năm... chỉ còn là xương thối trở thành bột. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".<br />
<br />
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.<br />
<br />
(Quán thọ)<br />
<br />
Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri: "Tôi cảm giác lạc thọ"; khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri: "Tôi cảm giác khổ thọ"; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ". Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất"; hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất"; hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất"; hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất".<br />
<br />
Như vậy, vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán thọ trên các nội thọ, ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các thọ, hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ. "Có thọ đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ.<br />
<br />
(Quán tâm)<br />
<br />
Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: "Tâm có tham"; hay với tâm không tham, tuệ tri: "Tâm không tham". Hay với tâm có sân, tuệ tri: "Tâm có sân"; hay với tâm không sân, tuệ tri: "Tâm không sân". Hay với tâm có si, tuệ tri: "Tâm có si"; hay với tâm không si, tuệ tri: "Tâm không si". Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ tri: "Tâm được thâu nhiếp". Hay với tâm tán loạn, tuệ tri: "Tâm bị tán loạn". Hay với tâm quảng đại, tuệ tri: "Tâm được quảng đại"; hay với tâm không quảng đại, tuệ tri: "Tâm không được quảng đại". Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: "Tâm hữu hạn". Hay với tâm vô thượng, tuệ tri: "Tâm vô thượng". Hay với tâm có định, tuệ tri: "Tâm có định"; hay với tâm không định, tuệ tri: "Tâm không định". Hay với tâm giải thoát, tuệ tri: "Tâm có giải thoát"; hay với tâm không giải thoát, tuệ tri: "Tâm không giải thoát".<br />
<br />
Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. "Có tâm đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm.<br />
<br />
(Quán pháp)<br />
<br />
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nội tâm có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi có ái dục"; hay nội tâm không có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ái dục". Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.<br />
<br />
Hay nội tâm có sân hận, tuệ tri: "Nội tâm tôi có sân hận"; hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có sân hận". Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên"; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên". Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi có trạo hối"; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có trạo hối". Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có nghi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có nghi"; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có nghi". Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.<br />
<br />
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.<br />
<br />
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư: "Ðây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Ðây là thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt. Ðây là tưởng, đây là tưởng tập; đây là tưởng diệt. Ðây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt. Ðây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt". Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn.<br />
<br />
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.<br />
<br />
Tỷ-kheo tuệ tri tai và tuệ tri các tiếng... tuệ tri mũi và tuệ tri các hương... tuệ tri lưỡi... và tuệ tri các vị... tuệ tri thân và tuệ tri các xúc, tuệ tri ý và tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.<br />
<br />
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ.<br />
<br />
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo nội tâm có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có niệm giác chi"; hay nội tâm không có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ý niệm giác chi". Và với niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với niệm giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.<br />
<br />
Hay Tỷ-kheo nội tâm có trạch pháp giác chi... (như trên)... hay nội tâm có tinh tấn giác chi... (như trên)... hay nội tâm có hỷ giác chi... (như trên)... hay nội tâm có khinh an giác chi... (như trên)... hay nội tâm có định giác chi... (như trên)... hay nội tâm có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có xả giác chi"; hay nội tâm không có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có xả giác chi". Và với xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.<br />
<br />
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi.<br />
<br />
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ"; như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ tập"; như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ diệt"; như thật tuệ tri: "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt".<br />
<br />
Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế.<br />
<br />
(Kết luận)<br />
<br />
Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.<br />
<br />
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.<br />
<br />
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.<br />
<br />
Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.<br />
<br />
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.<br />
<br />
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việtthiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-4255298024841325827.post-54331185005232323332018-06-10T17:31:00.000+07:002018-06-10T17:31:21.052+07:00Pháp thiền Vipassana áp dụng vào đời sống hiện đại <br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhTR-2Wq8jr-4guRRGRATlgTZGp0dMfFeZtoASuzIWbZIca_xi7Z5-NU4b-WWh5hq0_Ea9kq9Pe7C6tA_HdX9WPoXYltg219zMZiiXy1IIr5-dKipghA6PuYZTJcGBVadxn0mGkTSISlM4/s1600/1601441_1433259523606914_6974154729154564559_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="213" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhTR-2Wq8jr-4guRRGRATlgTZGp0dMfFeZtoASuzIWbZIca_xi7Z5-NU4b-WWh5hq0_Ea9kq9Pe7C6tA_HdX9WPoXYltg219zMZiiXy1IIr5-dKipghA6PuYZTJcGBVadxn0mGkTSISlM4/s1600/1601441_1433259523606914_6974154729154564559_n.jpg" width="320" /></a></div>
<br />
V. F. Gunaratna<br />
“Áp Dụng Pháp Tứ Niệm Xứ Vào Ðời Sống Hiện Ðại" là đề mục buổi nói chuyện của tôi chiều nay.<br />
Trước tiên tôi sẽ cố gắng trình bày cùng quý vị vài ý niệm về Tứ Niệm Xứ, rồi sau tôi sẽ vạch rõ tình trạng đặc biệt và phức tạp của thời đại hiện tại như thế nào để quý vị nhận thức rằng hơn lúc nào cả, Pháp Tứ Niệm Xứ rất cần thiết cho thời đại của chúng ta.<br />
<br />
Cũng như quý vị đã biết, Pháp Tứ Niệm Xứ đề cập đến sự phát triển một khả năng rất quý của Tâm là "Sati", hay "Niệm" (chú tâm). Sự phát triển ấy có bốn cách. Tứ Niệm Xứ có nghĩa là củng cố Niệm, hoặc thực hành Niệm. Bốn cách Niệm mà ta trông thấy trong Kinh là:<br />
<br />
1. - Niệm Thân (niệm hơi thở thuộc về khoảng này): Kàyànupassanà.<br />
2. - Niệm Thọ: Vedanànupassanà<br />
3. - Niệm Tâm: Cittànupassanà<br />
4. - Niệm Pháp: Dhammànupassanà<br />
<br />
Niệm là một trong tám Chi của Bát Chánh Ðạo; nó là một trong Ngũ Căn (Indriya) và cũng là một trong Thất Giác Chi (Bojjhanga). Như vậy quý vị cũng đủ thấy là Niệm (Sati) có một vị trí rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật. Thật vậy, Ðức Phật đã gọi nó là "Ekàyano Maggo" - con đường duy nhất, "sattànam visuddhiyà" - làm cho chúng sanh trở nên thanh tịnh, "soka pariddavànam samatikkamàya" - làm cho ta vượt qua phiền não và ta thán, "dukkha domanassànam tthangamàya" - làm cho ta tiêu diệt khổ não và âu sầu, "nàyassa adhiga màya" - đem ta vào Chánh Ðạo, "nibbànassa sacchikiriyàya" - để chứng quả Niết Bàn.<br />
<br />
Bởi thế nên theo quan điểm của người thường, Niệm cũng là một đức độ rất đáng kỳ vọng. Lẽ thường cho ta hiểu rằng thực hành Niệm sẽ làm cho ta trở nên tinh vi đúng mực hơn, nhặm lẹ hơn và làm giảm bớt những điều sai, những lỗi lầm, những sơ xuất, những tai nạn. Và lẽ thường cũng cho ta hiểu thêm rằng nếu thực hành Niệm thành một thói quen, tâm ta sẽ được quân bình, ta sẽ ý thức được sự tương xứng trong mọi việc, ta sẽ có một tinh thần minh mẫn và luôn luôn ta sẽ thận trọng. Nhưng, xin quý vị nên nhớ rằng Ðức Phật còn cho ta biết nhiều hơn nữa về kết quả của Niệm. Ðức Phật, với những lời lẽ hết sức là rõ ràng, như tôi vừa trích trên đây, dạy ta rằng Niệm có tác dụng làm cho chúng sanh trở nên thanh tịnh, làm cho ta vượt qua phiền não, đưa ta vào Bát Chánh Ðạo và cuối cùng làm cho ta chứng được Niết Bàn.<br />
<br />
* * *<br />
<br />
Song, làm thế nào để đạt được những kết quả cao quý và tốt đẹp ấy? Cho đặng thành tựu như thế thì cái Niệm mà ta thực hành không phải chỉ thuộc về thế gian này, không phải là Niệm "tại thế" (lokiya), nhưng phải là Niệm "siêu thế" (lokuttara), nghĩa là phải có một đặc tính riêng biệt thuộc về tinh thần, và do đó phải có một kỹ thuật đặc biệt để thực hành Niệm. Pháp Tứ Niệm Xứ đề cập đến bốn cách Niệm và phương pháp cần thiết để thực hiện. Như vậy, khi ta hành về một trong Tứ Niệm Xứ bằng phương pháp đặc biệt của nó, ta có thể thu thập được những kết quả hứa hẹn.<br />
<br />
Niệm cho đúng phương pháp có đặc điểm là nó đòi hỏi phải nhìn sự vật một cách khách quan, chứ không chủ quan; nếu Niệm không chứa đựng được yếu tố quan trọng là nhìn sự vật một cách khách quan, thì chưa chắc phải là Niệm đúng theo nghĩa của nhà Phật mà trong Kinh gọi là Sati. Ta phải cần phân biệt giữa lối nhìn khách quan và lối nhìn chủ quan. Khi có người yêu cầu Pythagore định nghĩa nhà hiền triết là như thế nào, thì ông trả lời với một ý nghĩa cũng tương tợ như trên là khi mọi người trên thế gian này được mời đến dự "tiệc đời", thì có một số người đến đặng hưởng lạc, một số nữa đến đặng cầu tiếng tăm, danh vọng, nhưng cũng có một số người khác đến để mà xem. Những hạng người sau này chính là những nhà hiền triết vậy. Tỷ dụ ấy ngụ ý là bậc triết nhân không đồng nhất mình với cuộc đời. Bậc triết nhân nhìn đời một cách bàng quan. Người tập luyện Sati cũng phải nhìn sự vật như thế.<br />
<br />
Khi quý vị nhìn một vật gì một cách chủ quan thì giữa quý vị và vật ấy có một ái lực về tinh thần. Quý vị đem Tâm mình đến rất gần vật ấy. Quý vị liên kết mình với đối tượng và nếu có mối liên kết nào giữa quý vị và đối tượng, thì quý vị sẽ không cố gắng để ngoài Tâm mối liên hệ ấy. Trái lại, mối liên hệ ấy còn ảnh hưởng rất nhiều và sẽ tô màu việc quan sát của quý vị. Rốt cuộc, quý vị không còn là người quan sát vô tư nữa. Còn như quý vị nhìn vật gì một cách khách quan thì quý vị cầm giữ tâm mình cho xa đối tượng, quý vị tách mình ra khỏi đối tượng và nếu có mối liên hệ nào giữa quý vị và đối tượng, thì quý vị sẽ không cho nó ảnh hưởng đến việc quan sát của mình. Như vậy, quý vị là người chỉ quan sát mà thôi, khác hẳn với người quan sát thiên vị. Người quan sát khách quan không bị ngoại cảm ảnh hưởng, tất nhiên sẽ thấy rõ hơn và đúng hơn người quan sát thiên vị, vì sự nhìn của người quan sát thiên vị có thể bị sai lệch bởi tư kiến, tư lợi. Người đứng ngoài thấy rõ nước cờ hơn người đánh cờ hoặc người đánh ké. Vậy, khi ta thực hành Niệm, ta phải thoát ra khỏi tất cả ý tưởng về bản ngã hay tư lợi, phải rán gắn Tâm vào đối tượng mà thôi, không lưu ý đến một giả thuyết nào, một phỏng đoán nào, thiên kiến nào, thành kiến nào hay ức đoán nào cả. Tóm lại, ta cố gắng có một hình ảnh thật của đối tượng và chỉ có hình ảnh ấy mà thôi. Chính đó là đặc tính của Niệm mà ta phải đào luyện cho kỳ được.<br />
<br />
Tôi đã nói rằng có bốn đối tượng của Niệm: Thân, Thọ (cảm giác), Tâm (ý tưởng), và Pháp (đối tượng của ý), và đối với mỗi đối tượng ấy, ta phải hành Niệm một cách khách quan. Bất cứ là đối tượng nào của Niệm, quý vị phải nhìn chỉ đối tượng ấy mà thôi. Ðó là bí quyết trong việc thực hành Satipatthàna (Tứ Niệm Xứ) để có hiệu quả, và bí quyết ấy Ðức Phật đã giải thích rõ ràng trong rất nhiều cơ hội. Quý vị có thể tưởng tượng tầm quan trọng của điều ấy khi tôi nhắc lại câu chuyện sau đây:<br />
<br />
Một hôm, trên đường đi trì bình, Ðức Phật dừng bước lại để giải thích bí quyết ấy cho một người nọ. Hàng ngày, Ðức Phật luôn luôn áp dụng một thời khắc biểu nhứt định và không khi nào thay đổi, như chẳng hạn trong lúc đi trì bình thì không bao giờ dừng bước lại để làm một việc nào khác. Thế mà trong trường hợp đặc biệt này, Ngài dừng chân lại để đàm luận cùng Bàhiya, nhà lãnh đạo một tôn giáo nọ. Ông Bàhiya này đã sống một cuộc đời lương thiện và ông đã tự cho rằng mình có thể đạt đến tầng A La Hán. Nhưng một hôm nọ có một vị Thần đến bảo ông rằng: "Người chưa phải là A La Hán đâu, cũng chưa đến A La Hán đạo nữa. Người đâu có biết được "kỹ thuật" (patipadà) để trở thành bậc A La Hán. Người hãy đến hỏi với Ðức Phật đi! Ngài là bậc A La Hán và Ngài đang dạy phương pháp đưa chúng ta đến tầng A La Hán. Ngài ở cách xa đây, tại thành Sàvatthi (Xá Vệ)".<br />
<br />
Những lời khuyên của vị Thần làm cho Bàhiya rất xôn xao. Ông tức khắc lên đường thẳng đến Sàvatthi. Trong Kinh chép rằng ông khao khát học tập "kỹ thuật" để trở thành bậc A La Hán đến nỗi ông chỉ ngừng lại có một đêm trong suốt cuộc hành trình của ông. Khi đến Jetavana (Kỳ Viên) tại thành Sàvatthi, ông được biết rằng Ðức Phật đã đi trì bình. Rất bối rối, ông bèn noi theo hướng Ðức Phật đã đi. Gặp được Ngài, ông liền quỳ xuống, đặt trán lên chân Ngài và khẩn cầu Ngài chỉ dạy cho "kỹ thuật" để trở thành A La Hán. Hai lần thỉnh nguyện và cả hai lần Ðức Phật đều không chấp thuận lời yêu cầu của ông, nói rằng: "Này Bàhiya, anh đến không đúng lúc. Chúng tôi đã lên đường đi trì bình". Khi ông thỉnh cầu đến lần thứ ba, vì biết nghiệp ông phải chết nội ngày ấy, nên Ðức Phật dừng chân lại mà giải thích một cách tóm tắt như sau đây: "Này Bàhiya, anh phải luyện tập như thế này:<br />
<br />
"Ditthe dittha - mattam bhavissati<br />
Sute suta - mattam bhavissati<br />
Mute muta - mattam bhavissati<br />
Vinnàte - vinnàta - mattam bhavissati".<br />
<br />
"Khi trông thấy vật gì, anh chỉ nên thấy vật ấy mà thôi.<br />
Khi nghe tiếng gì, anh chỉ nên nghe tiếng ấy mà thôi.<br />
Khi có một ý tưởng nào, anh chỉ nên nhận thức ý tưởng ấy mà thôi.<br />
Khi có sự hiểu biết nào, anh chỉ nên nhận thức sự hiểu biết ấy mà thôi".<br />
<br />
Bấy nhiêu lời đủ làm cho Bàhiya giác ngộ.<br />
<br />
Ðó là những lời rất uyên thâm, đầy ý nghĩa. Với sự trình bày trước đây, tôi chắc rằng quý vị đã lãnh hội được đầy đủ. Nếu quý vị thực hành Niệm trên một sắc tướng nào thì quý vị phải chỉ thấy sắc tướng ấy mà thôi, chứ đừng thấy gì khác nữa. Những ý nghĩ và cảm kích nào do lợi ích riêng tư đã phát sinh khi quý vị thấy sắc tướng ấy, cũng không được làm sai lệch sự trông thấy của quý vị. Khi đối tượng của Niệm là một tiếng động thì phải chỉ có tiếng động ấy mà thôi, chứ không nên có những ý nghĩ và cảm kích nào tạo ra vì tư lợi. Khi ta nghe một việc gì cũng vậy, chỉ nên nghe việc ấy mà thôi. Ðối với ba cách Niệm kia quý vị cũng nên giữ một thái độ tinh thần như thế.<br />
<br />
Khi Ðức Phật cùng các đệ tử trì bình xong trở về, Ngài thấy Bàhiya nằm chết bên lề đường, vì bị một con bò con húc. Ðức Phật bảo đệ tử của Ngài đem thi hài ông đi hỏa táng. Sau đó, Ðức Phật nói rằng: "Bàhiya đã vâng theo lời ta dạy. Anh đã chứng ngộ đạo quả A La Hán".<br />
<br />
Giờ đây ta mới thấy sự quan trọng của lối nhìn sự vật một cách khách quan. Mỗi khi cái gì đến ta, ta không nên để nó ảnh hưởng đến ta. Ta phỉ nhìn nó một cách thật khách quan. Cái gì đến ta có thể là sắc, hoặc thinh, hoặc hương, hoặc vị, hoặc xúc, hoặc một ý tưởng. Trong Anh ngữ không có danh từ nào đồng nghĩa với ý tưởng "cái gì đến trên con đường ta". Danh từ Pàli là "àrammana", thường được dịch là "đối tượng". Ấy là những gì đến với ta trên đường đời và nếu ta nhìn những việc ấy một cách khách quan, thay vì để nó chế ngự ta, thì ta sẽ trải qua cuộc đời đúng đắn, không lầm lạc. Hiện nay thế gian đang khổ vì không quan sát đúng những "sự việc gặp gỡ" ấy. Trước những "sự việc gặp gỡ" ấy ta hồi tưởng lại bao nhiêu là phản ứng của ta đối với nó trong quá khứ, bao nhiêu là khuynh hướng của ta trong hiện tại, rồi ta vội vàng hành động. Như vậy là điên cuồng. Ta cứ để cho hình ảnh thật tự nó in vào đầy đủ trong tâm thức ta. Trái lại, hiện nay ta không chịu chờ có một hiểu biết đầy đủ nào về "sự việc gặp gỡ" đó. Những nét sơ thiển của nó đủ ảnh hưởng ta và khiến ta vội vàng hành động.<br />
<br />
Thí dụ, quý vị thử xem một điều gọi là ác. Quý vị nên nhìn nó một cách khách quan, thay vì để những phản ứng thường tình do nó gây nên xen vào trong tâm thức quý vị. Quý vị hãy cố gắng đạt hết ý nghĩa của cảnh tượng ấy. Hãy vô tư, hãy thành thật, hãy bình tĩnh xem. Hãy nhìn nó cho lâu, đừng để cho những dục vọng, những cảm kích, những quan niệm mà cảnh tượng ấy có thể gợi lên trong tâm thức quý vị, làm xao xuyến quý vị. Ðừng kết luận, cũng đừng ước đoán. Cứ chỉ nhìn, nhìn một cách khách quan, thì chắc chắn rằng bộ mặt giả dối bên ngoài của điều xấu sẽ mất đi và quý vị sẽ không bị sai lầm. Cái bề ngoài dễ thương của mọi điều ác quyến rũ một số không ít những người nhẹ dạ, không nghi ngờ gì cả, nhưng sẽ biến mất trước cái nhìn chăm chăm, không lay chuyển của người quan sát khách quan. Và người này sẽ thấy vạn vật dưới ánh sáng thật của nó. Quý vị sẽ thấy vạn vật đúng chân tướng của nó - yathà bhutanana dassana - và một khi quý vị thấy vạn vật đúng theo chân tướng của nó thì quý vị không còn là nạn nhân của si mê nữa. Ðó là sứ mệnh cao cả của Satipatthàna (Tứ Niệm Xứ).<br />
<br />
* * *<br />
<br />
Tôi vừa nói về ý nghĩa đặc biệt của chú Niệm. Giờ đây chúng ta hãy bàn qua phương pháp đặc biệt để thực hiện Niệm. Trước hết ta nên nói rằng phương pháp đặc biệt ấy nhắm vào sự thực hành đối tượng thứ nhất của Niệm, là Niệm thân, và đặc biệt nhắm vào cách Niệm đặc biệt về thân và Niệm hơi thở "ànàpàna-sati". Thực hành loại Niệm này cần chọn một giờ nhất định là một cách ngồi riêng biệt. Các loại Niệm kia có thể thực hành bất kỳ chỗ nào, bất cứ giờ nào, tùy theo cơ hội thuận tiện.<br />
<br />
Vậy thực hành Niệm về hơi thở cần phải ở nơi nào? Trong Kinh có chép: "arannagato và rukkhamùlagato và sunnàgàragato ". "Trong một khu rừng, dưới một cội cây, hoặc trong một ngôi nhà trống". Ba chốn được kể ra đây bao hàm ý nghĩa phải chọn một chỗ yên tĩnh, một nơi mà ta có thể lui về để tránh sự ồn ào, sự náo nhiệt, sự xôn xao của nếp sống bận rộn hàng ngày. Ðây là một điều mà thế giới hiện đại rất cần có. Nhưng, rừng rú thì càng ngày càng bớt đi, ở thành thị thì rất hiếm có vườn tược với những cổ thụ có bóng mát. Ở thôn quê thì có vườn tược và cây cối, nhưng thôn quê mau trở thành đô thị và nơi đó hết phải là những nơi vắng vẻ, yên lặng và tĩnh mịch như hồi xưa. Những người sống ở thành phố rộn rịp hoặc ở thôn quê rộn rịp chỉ còn có giải pháp thứ ba là ngôi nhà trống (sunnàgàra). Ngay đến ngôi nhà trống cũng không dễ gì tìm ra, vậy ta phải tìm một căn phòng trống. Trong đời sống hiện đại vấn đề chỗ ở khó khăn đến đỗi một căn phòng trống cũng không bao nhiêu người có đặng. Lối sống chen chúc và cách sống ở các nhà cao tầng, khu tập thể ngày nay làm cho ta càng khó có riêng một căn phòng trống. Ðiều cần thiết đó là chọn một góc yên tĩnh trong căn phòng, hoặc hơn nữa quý vị nên niệm hơi thở trên giường buổi tối hay sáng sớm, khi đâu đó đều thật yên lặng.<br />
<br />
Khi chọn được một chỗ rồi, quý vị phải cố giữ chỗ ấy luôn luôn, đừng thay đổi, nếu không sẽ bất lợi nhiều. Thế rồi quý vị lại phải chọn một giờ nhất định và phải cương quyết giữ đúng giờ đó. Quý vị nên nhớ rằng thực hành niệm số tức quan (ànàpànasati), tức là hành thiền, phải hành cho đều đặn, và một khi quý vị ý thức tầm quan trọng của điều này thì quý vị không nên để bất cứ việc gì cản trở nó. Phải cứ chỗ mình đã chọn, mỗi ngày và mỗi ngày phải đúng giờ đã định. Ðó là những yếu tố tâm lý quan trọng đem đến kết quả và thành công. Cơ thể con người được cấu tạo như thế nào nên nó có thể đáp ứng dễ dàng với nhịp đều đặn trong sự hành thiền. Nếu quý vị tập cho quen việc hành thiền đúng nơi và đúng giờ, và nếu quý vị thành tâm hành thiền cho đều đặn thì chắc chắn mỗi khi đến giờ hành thiền, quý vị không còn muốn làm một việc nào khác cả. Nếu có một việc gì xảy đến làm trở ngại việc hành thiền của quý vị mà quý vị không sao tránh được, thì quý vị thấy thất vọng nhiều. Hơn nữa, khi đến giờ hành thiền, quý vị cảm thấy trong lòng thỏa thích vì lúc ấy tâm trạng của quý vị đã sẵn sàng chờ đón cuộc hành thiền. Quý vị sẽ ngạc nhiên mà nhận thấy tất cả những tư tưởng xấu đều dừng lại không vào được Tâm của quý vị trong giờ phút thiêng liêng này. Ngay khi quý vị đến chỗ hành thiền quen thuộc - chỗ ấy phải là thiêng liêng đối với quý vị - quý vị cũng sẽ ngạc nhiên mà cảm thấy Tâm mình đáp ứng dễ dàng với kỷ luật mà quý vị đã áp dụng. Quý vị cũng sẽ ngạc nhiên mà nhận thấy tư tưởng xấu không vào được Tâm mình. Nếu có đi nữa, những tư tưởng ấy cũng sẽ nhường chỗ dễ dàng cho những tư tưởng tốt. Vì thế nên quý vị cần dành riêng một giờ nhất định và chọn một nơi riêng biệt để hành thiền.<br />
<br />
Tôi cũng xin nhắc quý vị rằng mỗi ngày, trong lúc rảnh rang, quý vị nên nhớ lại số tức quan mà mình đã hành buổi tối hoặc hồi sáng sớm. Mỗi ngày trong lúc rảnh rỗi, quý vị phải biết đem Tâm mình trở về với sự yên lặng, phải biết giữ cho yên tĩnh trong cảnh náo nhiệt hàng ngày. Quý vị nên nhớ đến hơi thở, dầu trong vài phút cũng được. Trong trường hợp đó tất nhiên ta không nên câu nệ nào là giờ khắc nhất định, nào là chỗ ngồi riêng biệt, nào là cách ngồi đặc biệt.<br />
<br />
Có lẽ quý vị cũng muốn hỏi: "Trong thế giới bận rộn ngày nay làm thế nào mà tìm được thì giờ để hành thiền chút ít?" Tôi sẽ nói rằng: "Dầu thế nào đi nữa, quý vị cũng có thể có thì giờ". Ðành rằng thời đại này là một thời đại luôn luôn bận rộn tạo nên bởi sự quay cuồng khủng khiếp và sự căng thẳng triền miên của mọi vật. Chẳng hạn như quý vị định đi đến một nơi nào đó mà không đi suốt được phải sang xe. Dầu chuyến xe đầu có chạy thật mau đi nữa, quý vị cũng phải chờ đôi chút trước khi bước sang xe thứ nhì. Trong lúc chờ đợi, quý vị lấy làm nóng nảy. Tâm trạng của quý vị rất căng thẳng. Ðó là dịp mà quý vị có thể niệm một chút về số tức quan (ànàpànasati). Hoặc giả quý vị đến nhà ga mua vé xe lửa. Trong lúc đó đã có rất đông người đang đứng nối đuôi nhau chờ. Quý vị bực bội không biết đến chừng nào mới đến phiên mình mua được vé. Ðây cũng là một cơ hội nữa mà quý vị có thể thực hành ànàpànasati. Quý vị đáp xe lửa trên một đường phải đổi xe. Khi xuống xe để đổi sang chiếc khác, quý vị đi bách bộ trên thềm ga; quý vị cũng bực mình nóng nảy chờ được đổi xe. Ðây cũng là một dịp nữa để quý vị thực hành ànàpànasati. Xe hơi của quý vị đang chạy rất nhanh, vừa đến ngã tư thì đèn xanh lại cũng vừa tắt đi và đèn vàng thay thế. Quý vị bực mình nhưng phải ngừng lại. Tâm trạng quý vị rất căng thẳng vì dường như quý vị phải chờ đợi không biết mấy kiếp đèn vàng mới chịu tắt, rồi đèn đỏ mới chịu cháy, rồi bao nhiêu kiếp nữa đèn đỏ mới chịu nhường chỗ cho đèn xanh trở lại. Trong khoảng thời gian "vô tận" đó, quý vị có thể thực hành chút ít về ànàpànasati. Ðược vậy sự căng thẳng trong người của quý vị sẽ biến đi, quý vị sẽ bình tĩnh hơn và sẵn sàng đối phó với bất cứ vấn đề nào cần đến sự lưu ý của quý vị. Trong phòng đợi ở nhà ga, trong phòng khách của bác sĩ hay của nha y sĩ, trên xe lửa, trong lúc đi xe nhà hoặc đi xe đò, quý vị lại không thể thực hành được một chút về ànàpànasati sao? Ðấy, quý vị sẽ thấy rằng trong đời sống hàng ngày ở thế giới bận rộn ngày nay cũng còn có cơ hội cho quý vị trở về với sự yên lặng của Tâm và hành "Niệm" đôi chút.<br />
<br />
Giờ đây, sau khi xem xét về nơi và giờ hành thiền, chúng ta bàn đến cách ngồi cần thiết khi ta niệm hơi thở (ànàpànasati). Trong Kinh chép rằng: "Nisìdati pallankam àbhujitvà ujum kàyam panidhàya" - hành giả ngồi, hai chân tréo lại (kiết già), giữ thân mình cho ngay thẳng. Ðó là một cách ngồi mà ta có thể không nhúc nhích trong một thời gian quá lâu. Có người cho rằng ngồi yên, không động đậy tay chân đến cả nửa giờ, dù có ngồi trên một chiếc ghế êm đi nữa, cũng rất là khó. Nhưng ta cần tập ngồi kiết già và ngồi không nhúc nhích. Ðiều đó rất cần thiết cho thời đại này vì thời đại này là một thời đại mà sức động của mọi vật đang lên tột độ. Quý vị hãy nhìn chung quanh quý vị mà xem. Quý vị sẽ thấy toàn là sự động cả; và sự động sẽ đem ta đến náo động. Tất cả những cảm giác về yên tĩnh đều mất hết, và khi sự yên tĩnh mất đi rồi thì Tâm ta mất hẳn quân bình của nó. Sự yên tĩnh là bước đầu trên con đường đi đến tâm thần thanh tịnh và tráng kiện. Rõ ràng hiện nay con người thiếu hẳn sự yên tĩnh. Một bữa nào đó quý vị thử làm một lần xem: Quý vị bỏ chỗ náo nhiệt, đi tìm một nơi nào yên tĩnh đoạn ngồi lại đó. Trong lúc Tâm đang bị chao, ngồi yên như vậy quý vị sẽ cảm thấy nó được vô cùng thơ thới. Như thế không những làm cho thân quý vị được an mà Tâm quý vị cũng nhờ đó mà lắng xuống, yên tĩnh, vững vàng. Tịnh được như vậy không khác nào Tâm ta được một liều thuốc bổ và chỉ trong một phút yên tĩnh ngắn ngủi như vậy, quý vị cũng đủ cảm thấy phần nào như quý vị thức tỉnh trong tâm trạng an lành và vững chắc.<br />
<br />
Ðời sống hiện tại làm cho ta hàng phút phải động luôn luôn, muôn nghìn hoạt động tấp nập xoay chuyển chúng ta, chúng ta sống trong hoàn cảnh lo âu bấn loạn, căng thẳng: Ðó là bao nhiêu lý do làm cho ta phí sức rất nhiều. Vậy thì, trong một dịp nào đó, quý vị thử ngồi yên, chỉ một chút thôi, quý vị sẽ thấy tâm lực của quý vị được bảo tồn nguyên vẹn. Cách ngồi kiết già như hoa sen (padmàsana) thích hợp nhất, vì như thế quý vị mới ngồi được lâu mà không nhúc nhích. Chính nhờ hai chân tréo lại và hai bàn tay chồng lên nhau mà khí lực của Tâm, còn nguyên vẹn nhờ sự tham thiền, không bị hao giảm. Ngồi kiết già thì thân mình vững vàng, vì sức nặng của xác thân được thản ra đồng đều. Ngồi như thế, quý vị sẽ thấy dễ ngồi lâu không động đậy hơn là ngồi một cách nào khác. Nhờ cách ngồi thẳng lưng, quý vị hoàn toàn kiểm soát được hơi thở của mình. Quý vị có thể thong thả hơn. Vả lại, có một sự liên quan mật thiết giữa dây tủy xương sống và những cảm kích của ta. Khi quý vị ngồi như thế, quý vị dễ kềm hãm những cảm kích hơn. Nếu người nào cho cách ngồi kiết già là khó, thì có thể ngồi trên ghế có dựa ngay thẳng, đặng giữ thân mình cho được ngay thẳng. Hai chân phải chấm đất.<br />
<br />
Giờ đây chúng tôi xin trình bày phương pháp thực hành "Niệm hơi thở" (ànàpànasati). Sau khi chọn một chỗ thích hợp, một giờ thích hợp và đã ngồi được kiết già, quý vị bắt đầu chú tâm về hơi thở. Thở cho nhẹ nhàng, êm dịu và khi thở phải hoàn toàn nhận thức hơi thở và không nên rán sức. Ðừng thở mạnh. Thở tự nhiên và êm dịu, luôn luôn chú tâm theo hơi thở của mình. "Dìgham và Passasanto dìgham assasàmi ti pajànàti; dìgham và passansanto dìgham passamì ti pajànàti" - Khi thở vô dài, hành giả biết mình thở vô dài. Khi thở ra dài, hành giả biết mình thở ra dài. Cũng thế, khi mình thở vô vắn, biết mình thở vô vắn, và khi thở ra vắn, biết mình thở ra vắn. Hành giả chớ nên đồng nhứt mình với hơi thở. Phải nhìn hơi thở một cách khách quan, chứ đừng chủ quan. Không nên nghĩ rằng chính mình đang thở đây. Phải lắng xem chỉ hơi thở mà thôi, chứ không nên biết gì khác. Phải giữ cho kỳ được sự nhận thức rõ rệt về hơi thở. Ðiều cần thiết là Tâm phải an trụ và biết được rõ ràng khi nào thở vô, khi nào thở ra.<br />
<br />
Quý vị nên nhớ rằng đây không phải là sự luyện tập cách thở. Ðây là sự luyện tập "niệm hơi thở". Không cần phải nín thở như trong quyển Yoga Sutra của Patangali hoặc trong các sách Ấn Ðộ Giáo dạy. Bền chí trong cách quan sát về hơi thở sẽ đem lại kết quả sau đây: Quý vị sẽ theo dõi được cho đến cùng hơi thở vô và hơi thở ra, và do đó quý vị sẽ cảm thấy càng ngày càng được bình tĩnh và yên trụ hơn. Sự thông khí trong phổi sẽ được dễ dàng hơn và sức khỏe sẽ được dồi dào hơn, nhưng đó là phụ thuộc. Thực hành Niệm về hơi thở (ànàpànasati) không gián đoạn đưa ta đến những tầng cao của Thiền Chỉ (Samatha Bhàvanà): ấy là nhập định, thường được gọi là đắc thiền (Jhàna). Nhưng thay vì theo đuổi các tầng Thiền (Jhàna), hành giả có thể chọn con đường của Thiền Minh Sát (Vipassanà Bhàvanà) và đắc Minh Sát Tuệ (Vipassanà).<br />
<br />
Con người sống trong thế kỷ hiện nay khó mà hiểu được tại sao việc quan sát hơi thở lại đem đến cho ta những kết quả cao quý như vậy. Trong quyển "Chủ Yếu Của Pháp Tham Thiền Trong Phật Giáo", Ðại Ðức Nyanaponika Thero cho rằng "cái thở của ta đứng giữa những tác dụng tự nhiên của cơ thể và những tác dụng do ý chí điều khiển. Vì thế nên hơi thở cho ta cơ hội thuận tiện để mở rộng quyền kiểm soát của ta trong cơ thể"; vậy chúng ta có thể đoán được biết bao nhiêu khả năng có thể khai thác một khi chúng ta thực hành Niệm về hơi thở đúng phương pháp. Ngài nói tiếp rằng bởi việc quan sát không gián đoạn về sự phồng lên và xọp xuống của cơ thể do hơi thở tạo ra, "ta có thể chứng ngộ được sự dâng lên và hạ xuống của Biển Vô Thường". Hành giả sẽ nhận thức rõ rệt sự phát sinh và tiêu diệt của chúng sanh và vạn vật. Ðây không phải là một sự hiểu biết về lý trí, mà là một kinh nghiệm về tâm thức, vừa uyên thâm vừa cao siêu, mà ta nhận thức được một khi ta chứng ngộ sự phát sinh và tiêu diệt của hơi thở.<br />
<br />
Thế rồi, về phương diện thân nghiệp, hành giả không còn hành động một cách dại dột nữa. Hành giả không còn nô lệ với cái xác thân nữa. Vượt lên khỏi tầng vật chất, hành giả sẽ thấy trong thân thể con người không có gì có thể làm nền tảng đúng lý cho quan niệm "Tôi" hoặc "Của Tôi". Và cũng không thể nói "Tôi Thở". Như vậy, hành giả sẽ thấy rằng trong thân này không có một thực thể trường tồn nào đáng cho ta bám níu hoặc có lợi cho ta bám níu, "Anissitc ca viharati na ca kinci loke upàdiyati" "Hành giả không tùy thuộc cái gì cả, cũng không bám níu cái gì cả trên thế gian này". Khi chứng được sự vô thường của xác thân, hành giả cũng chứng được tính vô thường của vạn vật. Chừng ấy hành giả mới thấy sự vật đúng theo chân tướng của nó. Lúc bấy giờ hành giả đã đạt đến tầng cao hơn. Niết Bàn nằm trên con đường ấy.<br />
<br />
Cũng có những cách niệm thân khác. Ðó là niệm về nhiều phần khác nhau trong cơ thể con người. Trong Kinh có kể đến 32 phần, thường được nghe những người giữ tám giới đọc khi họ xin giới: "Atthi imasmim kàye kesà lomà nakhà dantà taco mansam nahàru atthi v.v..." "Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương v.v...". Kinh chép tiếp rằng: "Hỡi các Tỳ Khưu, giá như trong một cái giỏ có hai miệng, trong đó có đủ các loại hạt, như lúa đất gò, lúa mạch, đậu xanh, đâu chim, mè, gạo; và có một người với đôi mắt thật sáng, đến dở nắp ra, rồi phân biệt như thế này: Ðây là lúa đất gò, đây là lúa mạch, đây là đậu xanh v.v...; cũng như thế, một người Tỳ Khưu phải suy nghĩ về bản thân mình, có da bọc ngoài, trong đầy nhơ bẩn; nghĩ từ gót chân trở lên, từ đỉnh đầu trở xuống như vầy: "Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt v.v...". Một cách niệm thân khác nữa là lấy mỗi phần trong thân thể ra mà xem xét, nhớ đến vị trí, màu sắc, hình dáng của nó và để ý rằng phần nào cũng thấy nhờm gớm và đáng ghét. Sự giải phẫu tỉ mỉ như vậy về xác thân sẽ giúp ta dứt bỏ cái ảo tưởng về "thân hình đẹp đẽ" và làm cho ta rõ tính nhơ bẩn của nó. Trong lời chú giải có thêm rằng: "Dù tìm kiếm thế nào đi nữa trong cả thân hình chỉ cao quá một thước này, bắt từ gót chân trở lên, từ đầu trở xuống và từ ngoài da trở vô, không ai thấy đặng một mảy may tinh khiết nào cả, dù nhỏ bằng nguyên tử; trái lại, người ta sẽ thấy toàn là đủ loại ô trược, rất hôi thối, rất có hại, trông rất chán, như là tóc, lông v.v...".<br />
<br />
Niệm thân cách này rất cần thiết cho thế giới hiện đại vì ngày nay người ta đã quá chú trọng đến xác thân. Con người rất quyến luyến thân thể mình, xem nó như một sở hữu vô cùng quý giá. Vì thế, phải có một phương pháp giải phẫu cứng rắn như trên đây mới mong gợi lên trong con người lòng ghê tởm xác thân, ngõ hầu đi đến sự vô tư đối với nó và cuối cùng chứng ngộ sinh diệt của vạn vật. Chừng ấy ta mới thấy sự vật đúng theo chân tướng của nó. Hành giả lúc bấy giờ đạt đến một tầng cao hơn.<br />
<br />
Có hai cách niệm thân nữa, là niệm Tứ Ðại và niệm xác thân tan rã. Niệm Tứ Ðại cũng là một giải phẫu xác thân, nhưng khác hơn lối giải phẫu vừa nói trên. Ở đây xác thân được chia làm Tứ Ðại, nghĩa là Ðất, Nước, Gió, Lửa. Những yếu tố này có thể trong thể xác con người cũng như trong bất cứ một vật chất vô tri nào. Ðôi khi những đặc tính căn bản ấy của vật chất cũng được gọi là tính Cứng Ðặc, tính Kết Hợp, tính Nóng Nhiệt và tính Di Ðộng. Cách giải phẫu này có kết quả là khiến ta nhận thức rằng xác thân này không khác gì một vật chất vô tri nào, nó cũng vô ngã và vô thường vậy. Ðiều này thời đại của chúng ta thường hay quên, vì ta quá chú trọng đến thân thể. Cuối cùng lối giải phẫu như thế dẫn ta đến sự chứng ngộ sự sinh diệt của vạn vật. Khi thấy được chân tướng của sự vật, hành giả đã đạt đến một tầng cao hơn.<br />
<br />
* * *<br />
<br />
Chúng tôi đã cố gắng trình bày tường tận mặc dù cũng chưa đầy đủ chi tiết việc khảo sát của chúng tôi về loại Niệm đầu tiên là Niệm Thân (Kàyànupassannà). Giờ đây chúng tôi xin bàn qua loại Niệm thứ nhì, là Niệm Thọ (Vedanànupassanà). Ðây cũng thế, hành giả phải nhìn đối tượng một cách khách quan. Hành giả không nên đồng nhất mình với loại Thọ mình cảm nhận. Thọ thì có Lạc Thọ, Khổ Thọ và Xả Thọ, và đối với mỗi loại Thọ ấy ta chỉ nên cảm thấy nó mà thôi.<br />
<br />
Một người đau đớn về thể xác thường hay đồng nhất mình với cảm giác đau đớn ấy, đồng nhất chặt chẽ đến đỗi mình không thể xem nó một cách vô tư. Ta coi sự đau đớn là quan trọng nhất. Ta bị nó đè nén nặng nề. Ðối với một Lạc Thọ cũng thế. Niệm Thọ giúp ta tách ra khỏi thân ta và xem những cảm giác với đôi mắt vô tư của người bàng quan. Trong lời chú giải về pháp Tứ Niệm Xứ, có kể ra câu chuyện của một vị trưởng lão trong hàng Tỳ Khưu: Thân ông đau đớn dữ dội, nhưng ông cố tâm Niệm Thọ và trở thành khách quan đến đỗi khi người ta hỏi ông đau ở đâu, ông không thể chỉ đặng chỗ đau. Ðối với hành giả nào tự luyện tập như thế, nghĩa là xem cảm giác một cách bình tĩnh, vô tư, không đồng nhất mình với nó thì sớm hay muộn, nó cũng phải mất tính cách tối quan trọng và tối cưỡng bách mà trước kia hằng trụ trong nó. Hành giả cũng sẽ xem Thọ như một phần trong những hiện tượng luôn luôn biến chuyển của sự sống. Hành giả biết rằng những thọ ấy là vô thường. Nó cũng phát sinh và cũng hoại diệt.Cũng như đối với xác thân, đối với Thọ hành giả cũng chẳng thấy gì có thể làm nền tảng đúng lý cho quan niệm "Tôi" hoặc "Của Tôi". Không thể nói "Tôi Cảm Thấy" mà phải nói "Có Một Cảm Giác".<br />
<br />
Trong các loại Thọ nhứt thời ấy không có một loại nào mà trong đó ta có thể tìm thấy một thực thể trường tồn, có lợi cho ta bám níu hoặc đáng cho ta bám níu. Khi thấu hiểu được tính chất của Thọ, sự sinh diệt của nó, hành giả không còn bị nó kích động nữa. Nhờ quan sát sự sinh diệt của Thọ, hành giả thấy được sự sinh diệt của vạn vật. Hành giả thấy sự vật đúng theo chân tướng của nó. Khi hành giả đạt đến một tầng cao hơn.<br />
<br />
* * *<br />
<br />
Loại niệm thứ ba là Niệm Tâm (Cittànupassanà). Cũng như hành giả phải khách quan mà xem những tác dụng của Thọ trong thân thể mình, thì đây hành giả cũng phải khách quan mà xem những tác dụng của tư tưởng trong Tâm mình. Ta rất có lợi mà nhìn Tâm một cách khách quan. Có phải là hàng ngày ta luôn luôn tiếp xúc với trăm ngàn "khách khứa" (tư tưởng xảy đến cho ta) không? Ðúng vậy. Mỗi ngày trăm ngàn tư tưởng nhập vào Tâm ta. Ðiều này thành một thường lệ, vì ta xem những tư tưởng đến viếng Tâm ta là một sự kiện dĩ nhiên. Mỗi tư tưởng phát sinh ra đều ảnh hưởng ta hoặc một cách tốt đẹp hoặc một cách xấu xa.<br />
<br />
Tuy nhiên, tư tưởng sau có thể sửa đổi ảnh hưởng của tư tưởng trước. Một tư tưởng Sân chẳng hạn, có tác dụng tai hại đối với Tâm ta và chí đến Thân ta nữa; nhưng nếu tư tưởng liền kế đó lại là một tư tưởng có tính chất trái ngược hoặc một tư tưởng ăn năn chẳng hạn, biết mình đã làm quấy, thì tác dụng tai hại của tư tưởng Sân có thể được sửa đổi. Nếu ta tập thành thói quen, nhìn một cách khách quan bất cứ một tư tưởng xấu nào nảy sanh ra, thì ta có thể chận đứng được dễ dàng sự tiến triển của tư tưởng xấu ấy.<br />
<br />
Thực hành Niệm tâm có nghĩa là đào luyện thành thói quen lối nhìn một tư tưởng thật khách quan, chứ không chủ quan, và nhận thức rõ rệt sự hiện diện của nó. Không một tư tưởng nào được vào Tâm ta mà ta không hay biết rõ ràng. Chừng ấy ta mới khỏi bị tư tưởng sai khiến. Khi một tư tưởng Sân nổi lên, ta phải hoàn toàn hay biết và tự nhủ: "Hãy coi chừng, một tư tưởng sân đã vào Tâm ta rồi". Tự quan sát như thế đem lại kết quả tinh vi: Tư tưởng Sân mất tánh cách cưỡng bách của nó. Nó đã kiệt sức và không thể phát biểu ra ngoài bằng một hành động Sân. Phương pháp nhìn một cách khách quan bất cứ tư tưởng nào làm cho hành giả tránh khỏi ảnh hưởng tai hại của nó. Mỗi khi một tư tưởng xấu vào Tâm hành giả thì "con chó" sati (niệm) đang canh phòng liền sủa "người khách" xấu xa ấy và báo cho hành giả biết để cảnh giác; chừng ấy hành giả có thể khiến một tư tưởng có tánh chất trái ngược đến làm cho tư tưởng xấu kia vô năng, vô hiệu.<br />
<br />
Trong lời chú giải về Pháp Tứ Niệm Xứ có kể câu chuyện của Phussa Deva Mahà Thera. Vị Ðại Ðức này thường hay dừng chân lại trong lúc đang đi, nếu có một tư tưởng xấu nào vào Tâm Ngài. Ngài nhất định đứng đó đến khi nào xua đuổi được tư tưởng xấu kia ra khỏi Tâm rồi Ngài mới chịu tiếp tục đi. Trong lúc Ngài đứng lại như vậy, ai cũng lấy làm lạ, không biết Ngài đã đi lạc đường hay là đã bỏ quên vật gì. Ðến khi Ngài đắc quả A La Hán, mà chỉ mới có hai mươi tuổi, ít người biết được nhờ đâu Ngài đạt đến quả ấy. Vậy khi một tư tưởng xấu vào Tâm quý vị, quý vị phải vô tư và thành thật mà nhìn nó. Chỉ chú tâm đến tư tưởng đó mà thôi, đừng nhớ đến những việc đã xảy ra, làm nguồn gốc phát sinh ra tư tưởng đó, cũng đừng nhớ đến loại hành động nào mà tư tưởng đó gợi ra trong trí quý vị. Quý vị chớ nên nghĩ tới những vấn đề tùy thuộc như thế. Cứ nhìn thẳng vào tư tưởng ấy và chỉ nghĩ tới nó mà thôi. Chừng đó quý vị sẽ ngạc nhiên mà thấy tư tưởng xấu kia dần dần mất đi tính cách xúi giục của nó. Hãy kiên tâm mà nhìn nó. Cũng như nhà hiền triết Pythagore đã định nghĩa, quý vị chỉ nhìn nó mà thôi. Chỉ bao nhiêu đó thôi, và chắc chắn tư tưởng xấu kia sẽ không xúi giục quý vị hành động nữa. Nó cũng có thể biến mất.<br />
<br />
Nhìn vào Tâm mình không phải luôn luôn là một chuyện dễ. Con người thường hay tránh việc nhìn thẳng thắn vào Tâm mình bởi vì, nếu nhìn rõ Tâm mà hay biết được tư tưởng xấu xa thầm kín, điều ấy sẽ phá vỡ cái thành kiến tốt đẹp mà mình sẵn có đối với chính mình. Thực hành niệm tâm không gián đoạn sẽ giúp hành giả thấu hiểu rằng những tư tưởng của mình không phải là mình. Hành giả sẽ không đồng nhất mình với tư tưởng. Hành giả sẽ chứng được rằng, cũng như thân này, Tâm đây cũng chẳng phải là một thực thể, mà là một phối hợp tạm thời của những sự vật nhứt thời. Sự phối hợp tạm thời ấy cho ta cái ảo tưởng rằng có một thực thể trường tồn. Những thành phần phối hợp là vô thường và phải chịu biến chuyển như thế nào, thì vật được thành phần ấy phối hợp cũng vô thường và cũng phải chịu sự biến chuyển như thế ấy. Cũng như xác thân chỉ là sự phối hợp của tóc, thịt, móng, răng, toàn là những vật phải bị hoại diệt, thì Tâm cũng chỉ là sự phối hợp, hoặc nói cho đúng hơn, là sự kế tiếp của những tư tưởng mà tất cả đều hiện ra chỉ để rồi biến mất.<br />
<br />
Tâm ví như dòng nước chảy ,"Nadi soto viya". Dòng tư tưởng tạo ra cái ảo tưởng rằng có thực thể Tâm. Ví như những giọt nước kế tiếp nhau rớt xuống thật nhanh cho ta cảm tưởng rằng có một đường nước chảy. Những tư tưởng cũng thế, nó nối nhau nhanh chóng cho đến đỗi ta lầm tưởng rằng có một thực thể gọi là Tâm. Chỉ nhờ thực hành "cittànupassanà" (niệm tâm), ta mới thấy được rằng bản chất của tư tưởng là vô ngã và tư tưởng đều là những hiện tượng rõ ràng là nhứt thời. Nó đến rồi đi, nó hiện ra rồi biến mất. Như thế hành giả đã chứng ngộ sự sinh diệt của tư tưởng. Vậy, đối với tư tưởng, hành giả cũng không thấy có gì làm nền tảng đúng lý cho quan niệm "Tôi" hoặc "Của Tôi". Không thể nói "Tôi Tư Tưởng", nhưng phải nói "Có Sự Tư Tưởng". Trong những sự tiến triển nhứt thời ấy, không có một thực thể trường tồn nào có lợi cho ta bám níu hoặc đáng cho ta bám níu. Hành giả không tùy thuộc nơi nào cả, không bám níu gì cả trên thế gian này. Hành giả thấy được sự sinh diệt của vạn vật. Hành giả đã đạt đến một tầng cao hơn, và Niết Bàn nằm trên con đường ấy.<br />
<br />
* * *<br />
<br />
Giờ đây chúng ta nói đến loại Niệm cuối cùng, khác hẳn với các loại Niệm đã kể trên, là Niệm Pháp (Dhammànupassanà). Danh từ Pàli "dhamma" (pháp) đây có một nghĩa rất đặc biệt. Nó có nghĩa là "thành phần của tư tưởng" hoặc "đối tượng của Tâm", và nó đặc biệt ám chỉ Năm Chướng Ngại: Tham dục, thù hận, hôn trầm thùy miên, phóng dật hối tiếc và hoài nghi); Ngũ Uẩn (Panca Upàdànakkhandha); Lục căn (Salàyatana); Thất Giác Chi (Satta Bojjhanga) và Tứ Diệu Ðế (Cattàri Ariya Saccàni). Ðó là những "dhamma" (pháp) được đề cập trong Tứ Niệm Xứ Kinh.<br />
<br />
Nhờ sự kinh nghiệm hàng ngày, hành giả biết quan sát những "dhamma" ấy (đối tượng đặc biệt của Tâm). Hành giả phải chú ý đến những pháp đó nếu nó đã phát sinh trong tâm mình, và nếu nó không có phát sinh trong Tâm mình, hành giả cũng phải hay biết rằng nó không có phát sinh trong Tâm mình. Ðiều quan trọng không phải là sự hiểu biết những "dhamma" đó bằng lý thuyết. Ta phải "chứng" nó và thấu rõ nó khi nó phát sinh.<br />
<br />
Như về Năm Chướng Ngại chẳng hạn, ta không nên chỉ biết bằng lý thuyết rằng nó là những điều cản trở cho sự tiến bộ của ta trên con đường tu luyện, mà việc chánh yếu là ta phải coi chừng cẩn thận, hễ nó phát sinh trong Tâm ta là ta phải hay biết liền. Cùng thế ấy, mỗi khi một chân lý phát hiện trong Tâm hành giả, như Khổ Ðế chẳng hạn, hành giả phải hay biết nó ngay. Lối hành thiền này vừa là một liều thuốc giải độc cho những tư tưởng xấu, vừa là một sự chuẩn bị đón tiếp những Chân Lý trong Phật Pháp. Như vậy tất cả những kinh nghiệm hàng ngày của hành giả được đem ra đối chiếu và chứng y với những giáo điều trong Phật Pháp ở một điểm nào đó. Quán tưởng như thế về đối tượng của Tâm khi nó phát sinh, hành giả một lần nữa thấy rằng không có một thực thể trường tồn nào có lợi cho ta bám níu hoặc đáng cho ta bám níu. Hành giả không tùy thuộc gì cả, không bám níu gì cả. Lần nữa hành giả đạt đến một tầng cao hơn, và Niết Bàn nằm trên con đường ấy.<br />
<br />
* * *<br />
<br />
Chúng tôi đã nói đầy đủ về phần lý thuyết cũng như về phần thực hành Tứ Niệm Xứ. Giờ đây chúng ta hãy bàn qua việc áp dụng của Pháp này vào đời sống hiện đại. Trước hết ta hãy xem coi ở thế giới hiện nay những điều kiện về đời sống của con người đã tiến triển đến đâu. Hồi thế kỷ thứ XVII và thế kỷ thứ XVIII, chúng ta thấy xã hội đã mãn nguyện nhờ ở một đức tin ngây thơ về tiện nghi vật chất và ở những niềm hy vọng mà Tôn Giáo đã đem lại. Ðến thế kỷ sau, Tôn Giáo lại bị Khoa học lật đổ. Khoa học từ đó ngự trị tuyệt đối và xã hội lúc bấy giờ chuyên lo chế tạo đủ loại khí cụ hữu ích và đủ thứ máy móc vạn năng để cung phụng cho con người. Rồi về sau chúng ta thấy xuất hiện lòng Tham thống trị, hoàn cầu toan cướp đoạt lần hồi địa vị của Khoa học. Sự kiện này đưa đến việc liên kết giữa lòng Tham và Khoa học. Rồi từ đây Khoa học bị lợi dụng một cách đê hèn, để rồi chế tạo ra nào là khí cụ tối tân, nào là máy móc tinh xảo, không để phụng sự cho lợi ích nhân loại, mà là để cho con người giết hại lẫn nhau. Thế chiến thứ nhứt kế đến thế chiến thứ nhì đem lại những biến đổi ghê tởm trên thế gian, biến đổi trong cơ cấu xã hội, biến đổi trong kinh tế, biến đổi trong chánh trị.<br />
<br />
Con người bắt đầu hết tin tưởng nơi những tư tưởng xưa kia. Con người bắt đầu mạt sát Tôn giáo, mạt sát những tưởng thưởng về tương lai, vì con người hết quan tâm đến điều thiện và chỉ khao khát được hưởng cho đầy đủ trong hiện tại mà thôi. Tập hợp lại thành một quốc gia, con người khao khát hưởng được quyền thế, mong mỏi thống trị cả hoàn cầu. Vì thế nên những giá trị tinh thần bị suy giảm và hai thế chiến vừa qua đã chứng rõ điều ấy. Cái gọi là Văn Minh ngày nay chỉ là một lớp sơn mỏng về lễ phép xã giao bề ngoài. Hai thế chiến đã làm nứt rạn lớp sơn ấy và phô bày ra ánh sáng cái thú tánh trong con người hiện đại. Sự tàn sát hàng triệu người, những khổ cảnh dã man trong các trại tập trung, những tai họa khủng khiếp không diễn tả nổi ở Hiroshima và Nagasaki chứng tỏ một điều đáng lo là thế giới hiện nay đang đi lần vào sự sụp đổ nguy hiểm. Nếu ta không lên tiếng để chận đứng lại thì ta sẽ bị tiêu diệt bởi chính những độc ác của ta. Hình như nhà Khoa học ở thời đại này tưởng rằng mình đã giúp ích cho nhân loại. Nhưng, xin hỏi quý vị, căn cứ vào đâu mà cho rằng họ đã phụng sự nhân loại?<br />
<br />
Thời đại khoa học hiện nay thật có làm giảm bớt những đau khổ. Ðúng vậy, người ta đã chữa được nhiều chứng bệnh, đã phát minh ra nhiều thứ thuốc mới và giúp con người sống lâu hơn. Thời đại khoa học ngày nay đã xây cất nào là đô thị lớn, nào là cầu lớn, nào là xưởng lớn. Người ta đã chế ra xe cộ, tàu bè, phi cơ có khả năng tuyệt diệu để du hành trên mặt đất, dưới biển và trên không trung. Khoa học xóa bỏ không gian, tiết kiệm nhân lực và chế ngự thời gian. Nhưng, xin hỏi quý vị, Khoa học hiện đại có phát minh được thứ khí cụ nào hầu giúp con người trở nên cao thượng chăng? Khoa học hiện đại có phát minh ra một thứ khí cụ nào để giúp con người diệt Tham, Sân, Si chưa? Khoa học đã thám dò vũ trụ bên ngoài và đã cướp lấy những bí ẩn của thiên nhiên, nhưng việc làm đó không dẫn đến giải thoát con người. Có một thế giới khác, một thế giới có ích lợi cho ta thám hiểm hơn, đó là Tâm giới. Quý vị hãy tham cứu thế giới này bằng sự tham thiền đi, rồi quý vị sẽ đạt được trực giác và do đó quý vị sẽ giải quyết được vấn đề nhân sinh. Chừng ấy quý vị sẽ đạt được Pannà, hay Huệ, và nhờ đó quý vị sẽ thấy đặng chân tướng của vạn vật. Mỗi bước nhỏ mà quý vị tiến về hướng ấy đều là những bước đến gần sự giải thoát, những bước đến Niết Bàn vậy. Trào lưu rộng lớn, trào lưu nguy hiểm hiện tại lôi ta xa cách chân tiến bộ.<br />
<br />
Vì vậy nên một trào lưu trái ngược lại, cũng không kém phần rộng lớn, rất cần thiết cho nhân loại. Thế nên thực hành Satipatthàna (Tứ Niệm Xứ) mới là quan trọng và thích hợp. Satipatthàna giúp con người hiện đại cố sức chèo ngược trào lưu này để hướng về nơi giải thoát bằng cách cho mình đủ trí tuệ để nhận thức đâu là những khuynh hướng xấu xa để tránh. Mỗi khi khuynh hướng của thời đại này lôi kéo quý vị tách xa con đường chánh đáng mà quý vị gần như không hay biết, thì quý vị nên tin cậy nơi "con chó" Sati trung thành của quý vị, để nó kéo quý vị trở lại. Sức mạnh của Satipatthàna là như thế.<br />
<br />
Thời đại hiện tại là thời đại của sự hấp tấp và của tốc lực. Con người thực ra không có thì giờ để suy nghĩ cho chính xác. Nếu có chăng nữa, thị cũng để mà suy nghĩ làm thế nào để sống cái đời sống quây quần, lảo đảo này, từ ngày này qua ngày nọ. Nếu ta không tập suy nghĩ cho chính xác, sâu xa, thì ta dễ bị mất năng lực của Tâm. Như bàn tay của quý vị chẳng hạn, nếu trong thời gian sáu tháng mà quý vị không dùng đến nó, thì nó phải bị gầy yếu đi. Cũng thế, nếu quý vị không tập suy nghĩ cho sâu xa thì khả năng ấy của Tâm sẽ bị suy nhược và điều nguy hiểm cho quý vị là quý vị sẽ mù quáng tin theo những gì của bất cứ một ai nêu ra: Do đó họ có thể chế ngự được quý vị. Hiện nay sự kiện ấy đang diễn ra trước mắt ta. Trong giới doanh nghiệp, trong giới nông nghiệp, trong giới giáo dục, trong giới chánh trị, trong sinh hoạt hàng ngày, có một thiểu số người đang thao túng một số đông khác. Ða số này chỉ biết noi theo tư tưởng của thiểu số kia.<br />
<br />
Hiện nay, quý vị hãy thử xem coi có bao nhiêu tư tưởng đã tạo ra cho quý vị. Phải chăng đôi khi quý vị không còn tự do lựa chọn những vật cần dùng của mình và quý vị quyết định một cách vô ý thức? Ngày nay, lối quảng cáo hàng hóa ở khắp nơi làm cho quý vị. Nhiều khi quần áo của quý vị cũng bị người ta chọn lựa thế cho quý vị mà quý vị không dè. Sách quý vị đọc cũng thế và những dược phẩm có bằng phát minh mà quý vị thường uống cũng thế. Ðó là kết quả xảo diệu của quảng cáo, vì những người làm quảng cáo rất thông tâm lý. Báo chí cũng có trách nhiệm phần nào trong việc xây dựng những tư tưởng mẫu mực để cảm kích con người. Phần đông con người lại lấy làm thỏa mãn mà nhận lãnh những ý kiến ấy mà không cần phán đoán. Hiện nay có rất ít người biết tự mình tư tưởng, không để ai ảnh hưởng. Sự kiện này có nghĩa là phần đông con người chưa định Tâm, nên Tâm còn yếu ớt. Kết quả tai hại là hiện nay con người bị thiệt thòi trên đường tiến triển của Tâm, vì ta không thể nào tiến về mặt tinh thần nếu ta không định Tâm và không tham thiền. Nếu không tham thiền, dù quý vị có sống một cuộc đời lương thiện đến mức nào đi nữa, cũng không có gì bảo đảm rằng quý vị luôn luôn chánh trực được. Quý vị có thể bị sa ngã bất cứ lúc nào. Phương pháp dễ nhất để luyện Tâm thành một sức mạnh là thực hành số tức quan (ànàpànasati) mỗi ngày một chút ít. Không có cách tham thiền nào dễ cho con người hiện đại thực hiện hơn số tức quan. Chỉ có số tức quan mới bảo đảm ta tránh khỏi ảnh hưởng bên ngoài.<br />
<br />
Một đặc điểm khác của đời sống hiện đại là việc quá chú trọng về vấn đề nam, nữ. Hầu hết mọi việc đều được sắp đặt và lái như thế nào để nhục dục con người phải bị kích thích. Hãy nhìn xem xung quanh quý vị coi điều đó có đúng không? Quý vị hãy nhìn xem biết bao nhiêu là tiểu thuyết nhảm nhí, biết bao nhiêu là sách, báo khiêu dâm được xuất bản và trưng bày trong bất cứ nhà sách nào ở lề đường, vì được dán nhãn hiệu là tác phẩm văn chương; rồi quý vị sẽ ngậm ngùi mà nhận thấy rằng con người đã trụy lạc và xuống hố quá sâu. Quý vị hãy xem những phim được chiếu và những vũ điệu đời nay. Xin hỏi quý vị, vậy chớ những rạp chiếu bóng và những nơi khiêu vũ, những cuộc thi sắc đẹp và những hộp đêm có ích lợi gì cho con người hiện đại, nếu không phải với mục đích là để kích thích nhục dục con người? Nếu thỉnh thoảng không ai nhắc lại cho con người hiện đại rõ cái chân tướng của xác thân thì tâm họ sẽ bị che án bởi sự quá chú trọng về vấn đề nam, nữ và thể xác. Họ sẽ mất hẳn tất cả quan niệm về sự tương xứng quân bình và họ sẽ lấy giả làm chân. Kết quả sẽ là hỗn độn, bất hòa và trụy lạc.<br />
<br />
Một đặc điểm khác nữa của thế hệ ngày nay là lòng khao khát cái gì mới lạ. Lòng khao khát này đã thành một tật bệnh. Bởi không thực hành Sati (Niệm), con người không thể thấy được chân tướng của vạn vật và không thể phân biệt đâu là chánh yếu, đâu là phụ thuộc. Vì thế nên con người luôn luôn sống với một tâm trạng do dự, lúc nào cũng bất mãn. Một đời sống bình thản có vẻ quá ư buồn chán đối với họ. Họ khao khát những gì kích thích họ. Họ sống bằng cảm kích. Họ luôn luôn mong mỏi và cái gì mới, cái gì lạ. Họ không thể tự mãn với những lề lối, những hoàn cảnh, những tình thế hiện hữu. Họ sẽ luôn luôn trông mong vào một lề lối mới, máy móc mới, được phẩm mới, một đời sống mới, một lý tưởng mới. Họ mau chán những gì đã có. Họ thất vọng nếu đời họ không có nhiều cảm kích. Họ thất vọng nếu mỗi sáng họ không thấy những "tít" thật lớn trong báo chí. Thái độ đó là triệu chứng của bệnh tinh thần bất an.<br />
<br />
Người làm quảng cáo và nhà doanh nghiệp sẵn sàng lợi dụng nhược điểm này của con người hiện đại. Khi một kiểu vật phẩm nào đó hết thông dụng thì một kiểu khác liền được đem ra thị trường thay thế. Quý vị hãy xem cách thay đổi mau chóng của thời trang trong y phục. Hãy xem coi các kiểu bàn ghế và các vật dụng khác thay đổi dường nào. Những thay đổi liền liền như vậy nhắm mục đích chiều cái tính nguy hiểm trong con người hiện đại là tính luôn luôn đòi hỏi cái mới, cái lạ. Phương thuốc duy nhứt trị tật bệnh đó là học "Nghệ Thuật" nhìn sự vật một cách khách quan thì quảng cáo không còn dễ gì ảnh hưởng được họ. Sự quan sát khách quan cũng sẽ giúp họ khám phá ra biết bao nhiêu rượu cũ trong những chai mới. Họ không còn ảo tưởng cho rằng vật gì mới lạ là quý. Vì hoàn toàn hiểu biết cái gì là chánh trong đời họ và phân biệt rõ ràng đâu là chánh yếu, đâu là phụ thuộc nhờ Sati (Niệm) nên họ hết còn là nạn nhân của tính ham mê cảm kích quá đáng.<br />
<br />
* * *<br />
Có lẽ quý vị cho rằng Tứ Niệm Xứ là một phương pháp quá phiền toái và mệt nhọc, không thể nào thực hành cho có kết quả trong một kiếp người. Ðức Phật có nói như thế chăng? Có khi nào Ðức Phật nói Niết Bàn không thể đạt được ngay ở kiếp này chăng? Trong một bài Pháp hùng hồn về Tứ Niệm Xứ, Ðức Phật quả quyết rằng nếu ai thực hành Tứ Niệm Xứ trong bảy năm thì người ấy thâu thập được một trong hai kết quả sau đây: là chứng ngộ đạo quả A La Hán ngay ở kiếp này, hoặc ít ra cũng chứng được đạo quả A Na Hàm (Bất Lai). Trong câu kế đó Ðức Phật nói tiếp: "Hỡi này các Tỳ Khưu, đừng nói chi đến bảy năm, sáu năm cũng đủ vậy". Trong câu kế nữa Ngài nói rằng năm năm cũng đủ. Rồi kế đó Ngài sụt xuống còn bốn năm, ba năm, hai năm và một năm, Sau nữa chỉ còn bảy tháng, sáu tháng, năm tháng, bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng, nửa tháng và cuối cùng bảy ngày.<br />
<br />
Câu chuyện này cho ta thấy rằng việc chứng ngộ Niết Bàn không phải là một vấn đề thời gian, nhưng lại là vấn đề tinh tấn của hành giả hơn. Vậy, quý vị hãy để ý xem, bảy ngày mà chứng được Niết Bàn có phải là thành tựu mau lẹ không? Hiện nay con người vốn không nhẫn nại, luôn luôn mong mỏi những kết quả mau lẹ. Ðây là một bảo đảm về kết quả mau chóng có gì hơn. Tại sao con người hiện đại không nhận lấy tặng vật này đi? Có lẽ vì cho rằng kết quả hứa hẹn quá tốt đẹp nên khó mà có thật được. Nhưng ở đây, ý kiến này nọ là không thành vấn đề; thực hành mới là vấn đề. Muốn biết một món bánh có ngon hay không, ta phải ăn nó, chứ không phải đi phân tách nó và học hỏi những chất hóa học trong bánh đó. Vậy thì cuối cùng tôi xin nhắc với quý vị điều này: Xin hãy ngưng tranh luận suông về Tứ Niệm Xứ. Xin quý vị hãy yên lặng mà thực hành đi, rồi chính quý vị sẽ thấy kết quả. Ðức Phật đã nói: "Ehi passiko", "Hãy đến và tự mình chứng lấy".<br />
<br />
Chuyển ngữ: Asoka Lê Thị Ánh<br />
Theo: Buddhasasana<br />
<div>
<br /></div>
thiengiuadoithuonghttp://www.blogger.com/profile/05717583140585159429noreply@blogger.com1