SÁCH : PHÁP Ở MỌI NƠI - PHẦN IIa | Thiền Giữa Đời Thường

Thứ Tư, 11 tháng 2, 2015

SÁCH : PHÁP Ở MỌI NƠI - PHẦN IIa

SÁCH : PHÁP Ở MỌI NƠI - PHẦN II

Thiền Sư Sayadaw U Tejaniya

Sư Tâm Pháp Dịch

MỤC LỤC PHẦN II
Một số câu hỏi thêm….............................................................
Tóm lược...................................................................................
Thuyết pháp buổi sáng I............................................................
Thuyết pháp buổi sáng II..........................................................

MỘT SỐ CÂU HỎI THÊM

∎ Thái độ của bạn thế nào? Thái độ đúng hay sai?

• Bạn có hứng thú với phút giây hiện tại không?
• Bạn có mong muốn điều gì không?
• Tâm có thư giãn không?
• Bạn sử dụng bao nhiêu năng lượng?
•Tâm suy nghĩ thế nào về kinh nghiệm đang có? 

∎ Chánh niệm có mặt hay không?

• Khi có chánh niệm bạn cảm thấy như thế nào? Khi thất niệm cảm thấy ra sao? Chánh niệm và thất niệm khác nhau như thế nào?
• Nếu có chánh niệm, chất lượng chánh niệm ra sao? Tại sao chánh niệm mạnh, tại sao yếu?
• Chánh niệm có liên tục không?
• Nhờ chánh niệm trong thời điểm này, bạn hiểu ra được điều gì?
• Thế nào là lợi ích của chánh niệm?

∎ Tâm bạn phản ứng lại kinh nghiệm như thế nào?

• Tại sao tâm phản ứng hay không phản ứng?
• Bạn cảm thấy ra sao khi nhận biết một đề mục nào đó?

∎ Phiền não có mặt hay không?

• Tại sao nó sanh khởi?
• Tại sao nó mất đi?

∎ Tâm biết cái gì?

∎ Tâm đang làm gì?

∎ Bạn nghĩ thế nào về sự thực hành của mình?




TÓM LƯỢC

Trong phần tiếp theo này là tập hợp một số suy tưởng, ý kiến và gợi ý của thiền sư Sayadaw U Tejaniya và một số trường hợp ví dụ để xem xét. Chúng được dịch từ những buổi trình pháp, thuyết pháp buổi sáng, và cuốn sách nhỏ tiếng Miến màu xanh của thiền sư. Bởi vì đây là những trích đoạn nhỏ tách rời khỏi ngữ cảnh, nên mới xem qua sẽ có vẻ như không sáng nghĩa lắm, nhất là đối với những thiền sinh chưa quen với cách dạy của thiền sư. Trong trường hợp ấy, hãy thâu nhặt những gì phù hợp với bạn và với kinh nghiệm hiện tại của bạn, và để phần còn lại cho những dịp khác sau này.

***

Bản chất của tâm là hay biết. Tất cả mọi người đều sẵn có bản chất hay biết mà chúng ta đang thực hành để nuôi dưỡng, phát triển và củng cố nó. Chúng ta chỉ cần thực hành đúng đắn, không cưỡng ép hay tập trung. Đà quán tính và sức mạnh của chánh niệm sẽ phát triển một cách tự nhiên khi chúng ta thực hành một cách kiên trì, từng giây từng phút không gián đoạn. Đó được gọi là chánh tinh tấn (sammā vāyāma).

Tâm chánh niệm và tâm không chánh niệm có sự khác biệt rất lớn. Loại chánh niệm đến từ việc dùng sức tập trung chú tâm chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Loại chánh niệm phát triển một cách tự nhiên từ quá trình thực hành liên tục thì bền lâu hơn và không bị tác nhân bên ngoài làm hư hoại.

***

Mọi người đến trường thiền với dự định cố gắng thật nhiều để thành đạt được càng nhiều càng tốt trong một thời gian ngắn. Đó chỉ là công việc của tâm tham.

Thiền tập là công việc lâu dài, một sự thực hành suốt cả cuộc đời, không ngừng nghỉ cho đến tận khi giải thoát hoàn toàn. Chúng ta cần học hỏi cách chạy cuộc đua maratong này cho tốt và học cách nuôi dưỡng tất cả những phẩm chất tâm thiện.

***

Ở đây chúng tôi không “truyền Pháp cho bạn”. Chúng tôi chỉ dạy bạn kỹ năng hành thiền. Đó là điều tôi có hứng thú làm.

***

Trong cuộc sống hàng ngày, bạn không thể hành thiền bằng cách cưỡng ép chánh niệm hay rán sức quá mức một cách mất tự nhiên. Bạn đến đây để học cách thực hành để có thể đem về áp dụng trong cuộc sống.

***

Khi bạn hành thiền, có cái đang diễn ra (đề mục), và có cái đang hành thiền (tâm). Nếu chỉ chú ý tới cái đang diễn ra mà không chú ý tới tâm đang quan sát như thế nào, bạn sẽ không biết được tâm tham hay tâm sân đang phát triển trong mình do phản ứng với cái đang diễn ra.

Bạn sẽ bắt đầu hiểu được thiền khi có hứng thú học hỏi thêm về tâm mình và chú ý đến tâm quan sát. Hành thiền một cách khéo léo là một loại trí tuệ còn quan trọng hơn việc “có Pháp”. Điều đó sẽ đến một cách tự nhiên một khi bạn đã hiểu được cách thức thực hành.

***

Hãy nghĩ đến điều này: chừng nào chúng ta còn muốn thấy một kinh nghiệm hay một đề mục nhất định nào đó, thì đó vẫn là tâm tham. Chúng ta không thể nói là mình đang hành thiền trong khi thực hành với tham trong tâm quan sát như vậy.

***

Khi bạn mới bắt đầu, chỉ có mỗi chánh niệm thì không đủ. Bạn cần phải củng cố nó với các pháp hỗ trợ khác: chẳng hạn hãy nghĩ đến cách mình phải thực hành ra sao, và cái gì đang diễn ra trong thân tâm mình hiện giờ. Bạn sẽ bớt bị chìm đắm trong các suy nghĩ bất thiện khi tâm ngập tràn với các suy nghĩ thiện. Tâm không thể suy nghĩ hai việc cùng một lúc. Có suy nghĩ chân chánh thì sẽ không thể có suy nghĩ không chân chánh, hay bị suy nghĩ lôi đi. Hãy cho tâm một công việc và bắt nó phải làm việc. Đà chánh niệm được xây dựng nên từ việc cố gắng thực hành chánh niệm từng phút từng giây trong cả một thời gian dài.

***

Chúng ta cần có đà tiến để thành công trong mọi mặt của cuộc sống, cả trong việc học hành, kinh doanh hay nghề nghiệp. Đà tiến đó cũng cần thiết cho thiền tập lớn mạnh. Nhưng nên nhớ rằng đà tiến này không đến từ việc rán sức thật nhiều. Nếu chúng ta sử dụng năng lượng quá mức, chúng ta sẽ chỉ phung phí nó đến cạn kiệt vào cuối ngày. Chúng ta muốn loại đà quán tính đến từ việc thực hành một cách đều đặn, không ngừng lại ngang chừng.

Bất cứ người làm vườn có kinh nghiệm nào cũng hiểu: muốn trồng hoa phải làm gì? Bạn có nghĩ rằng: “Loại hoa này nhất định phải cần một thời gian dài để lớn…” và rồi kéo nó lên khỏi mặt đất không? Không! Tất nhiên bạn phải tưới nước cho nó, bón phân cho nó. Hoa sẽ tự làm công việc của nó là lớn lên. Bạn không thể ép buộc nó phải lớn được. Bạn chỉ có thể tính toán tạo điều kiện môi trường tốt để giúp cho cây phát triển.

Tương tự như thế, bạn dự tính và hoàn thành những điều kiện cần để cho pháp hành tiến bộ. Chính vì vậy tôi khuyên các bạn nên thực hành một cách kiên trì và liên tục. Khi đã có đà chánh niệm, chánh niệm sẽ có mặt dù bạn muốn hay không. Vì vậy nên bạn phải thực hành chánh niệm đều đặn, suốt cả ngày.

***

Hầu hết thiền sinh đều biết rằng họ cần phải thực hành một cách chăm chỉ. Tuy nhiên chỉ rất ít thiền sinh biết rõ họ phải thực hành chăm chỉ như thế nào.

Nhiều thiền sinh chăm chỉ tập trung tâm vào một đề mục. Thực tế, chúng ta hành thiền là để hiểu biết về những đặc tướng của đề mục (hay đối tượng hay biết). Thay vì chỉ dùng sức để thực hành, chúng ta cũng cần sử dụng chánh niệm cùng với trí thông minh để học hiểu về những đề mục đó. Chỉ khi đó sự tuệ giác mới sanh khởi. Khi nói cần phải có tinh tấn, cái tinh tấn đó không phải là sự rán sức tập trung. Loại tinh tấn cần phải có là sự kiên trì nỗ lực bền bỉ. Để có được chánh tinh tấn (sammā-vāyāma), chúng ta cần phải vận dụng trí thông minh và thái độ đúng.


***

Thiền là:

• Thực hành để nhận biết đề mục khi nó sanh khởi

• Phát triển trí tuệ trong tâm quan sát đề mục.

Công việc của thiền chánh niệm không phải là để làm cho đề mục biến mất. Chúng ta hành thiền không phải là để tống khứ đề mục hoặc cố gắng thấy hay tạo ra những kinh nghiệm hiện tại dựa vào những chấp thủ tư kiến  về thiền của mình. Chúng ta thực hành để nhận ra và hiểu bản chất của những gì đang diễn ra.

***

Biết cái gì là sai là điều rất quan trọng. Chỉ khi bạn hiểu được cái gì là sai thì bạn mới biết được cái gì là đúng. Bạn có thể học được rất nhiều điều từ những gì mình nghĩ là chướng ngại đối với thiền. Đó có thể là sự bất an hay đau khổ. Đừng đánh giá rằng những chướng ngại đó là xấu đối với sự tu tập của mình. Không có cái gì gọi là “thiền xấu” cả. Trong Pháp, chỉ có những cái đang diễn ra. Hãy chấp nhận hoàn cảnh hiện tại và cố gắng chánh niệm. Chỉ cần chánh niệm về những gì đang diễn ra đã là một việc tốt rồi. Tuy nhiên, hầu hết mọi người chỉ chú ý đến cái đang diễn ra và chỉ chạy quanh theo một cái vòng luẩn quẩn, kết quả của việc đánh giá cái này “tốt”, cái kia “xấu” mà thôi.

***

Không cần phải cố gắng kiểm soát hay hạn chế các cử động khi hành thiền. Đừng đi kinh hành quá chậm hoặc quá nhanh. Chỉ cần đi một cách tự nhiên. Làm những việc cần làm trong ngày một cách tự nhiên. Bạn học hỏi và thực hành để chú ý tốt hơn và chánh niệm tốt hơn về những gì đang diễn ra.

Thân và tâm, cái nào nhanh hơn Tâm diễn tiến nhanh hơn. Vì vậy, thay gì cử động chậm, hãy thực hành để mài sắc và làm vững mạnh các căn (các phẩm chất tâm linh) để chúng trở nên tự nhiên.

Bạn có thể thấy mà không phải cố ý nhìn. Bạn có thể nghe mà không phải cố ý lắng nghe. Bạn có thể ngửi được mùi mà không phải cố đánh hơi. Cũng vậy, bạn có thể chánh niệm một cách tự nhiên mà không phải chú tâm, không phải cố gắng rán sức. Khi đã có được chánh niệm tự nhiên, chúng ta chỉ cần làm việc để duy trì nó lâu dài.

***

Bạn thấy được những gì đang diễn ra. Khi bạn có thể thấy được tất cả mọi thứ như vậy thì có phải chánh niệm tốt hơn khi chỉ nhìn thấy được 1 thứ thôi không?

Khi có rất nhiều tâm si, thì quan sát ngay cả một đề mục cũng khó. Khi tâm có thể nhận biết được nhiều hơn, nó có thể chánh niệm được rất nhiều đề mục và bắt được nhiều kênh hơn bởi vì sức mạnh và phạm vi của chánh niệm mở rộng hơn.

Có vô số đề mục sanh khởi qua 6 cửa giác quan trong hiện tại. Nếu bạn có thể chánh niệm được càng nhiều đề mục càng tốt, thì đó có phải là chánh niệm (sammā-sati) không? Vì vậy, khi tâm có thể nhìn được nhiều đề mục khác nhau, trong thiền vipassana điều đó có nghĩa là chánh niệm đã mạnh hơn. Khi tâm hay biết với một loại trí tuệ nào đó hiện diện, tâm si sẽ rất khó sanh khởi. Chính vì vậy trí tuệ cần phải có mặt ở đó cùng với chánh niệm. Khi bạn đã có kinh nghiệm hơn, bạn sẽ có thể hành thiền với đề mục khởi lên qua bất cứ cửa giác quan nào.

***

Các thiền sinh thường nói là về lại cuộc sống họ khó thực hành hơn bởi vì cuộc sống bên ngoài có quá nhiều đề mục hơn ở trong trường thiền. Bạn nghĩ họ đang nói đến loại đề mục nào không? Đúng thế, bên ngoài có rất rất nhiều đề mục tục đế (khái niệm – paññatti) như ô tô, người, nhà cửa…Đó là cái mọi người thường chú ý đến, nhưng đó là vì mọi người không hiểu thế nào là chân đế (thực tại tột cùng, vượt qua mọi khái niệm – paramatha). Thực tại chân đế ở đây thì cũng chẳng khác thực tại chân đế ở bên ngoài. Trong trường thiền chỉ có 6 cửa giác quan và ở ngoài đời cũng chỉ có 6 cửa giác quan.

***

Không có gì thú vị hơn áp dụng Pháp vào trong cuộc sống. Mọi người không sử dụng Pháp trong cuộc sống thường ngày bởi vì họ không biết giá trị của Pháp. Một số người thực sự thực hành Pháp trong cuộc sống biết rõ giá trị của pháp hành này như một cái gì đó mà họ không thể sống thiếu nó được.

***

Bạn cần phải thay đổi cách nhìn của mình đối với thiền: không phải bạn quay về nhà…mà là bạn đang quay trở lại với một trường thiền khác! Hãy nghĩ rằng nhà mình là một trường thiền. Ngày bây giờ, bạn vẫn cứ nhìn việc đi kinh hành ở đây khác với việc bạn đi ở ngoài cuộc sống.

Ở đây, trong trường thiền, việc giữ chánh niệm là ưu tiên hàng đầu của bạn. Ở ngoài kia, có rất nhiều tâm tham khi những khái niệm nhà của tôi, gia đình của tôi… chiếm hữu tâm bạn. Vì vậy, bạn cần thay đổi cách bạn nghĩ về nhà mình. Sự thực hành của bạn sẽ trôi chảy hơn khi cách nhìn của bạn về nhà mình cũng như cách nhìn của bạn về một trường thiền. Ngay bây giờ, ngay khi trở về nhà thì mọi nghĩa vụ bạn cần làm trong cuộc sống đã lại trở thành ưu tiên hàng đầu của bạn.
Điều này liên quan rất nhiều đến thái độ. Khi bạn ra ngoài cuộc sống, hãy thường xuyên kiểm tra lại thái độ, cách suy nghĩ và những quan kiến đằng sau của mình. Khi bạn bắt đầu có cái nhìn ngôi nhà của mình như khi bạn có cái nhìn ở trong trường thiền, thì pháp hành của bạn sẽ tiến bộ.

***

Trong cuộc sống có rất nhiều cơ hội để thực hành bố thí (dāna). Chẳng hạn, bạn nhường đường cho một người muốn vượt bạn khi lái xe trên đường. Đó chẳng phải là bố thí ư? Có phải chỉ khi cho tiền người ta mới là bố thí đâu? Khi cho người ta chỗ (để vượt) thì sao. Tránh sang một bên và nhường chỗ cho người khác cũng là bố thí đấy thôi. Bất cứ khi nào chúng ta cho ra là đang bố thí.

Hồi còn bán hàng ở ngoài chợ, tôi nhận ra là mọi người chẳng bao giờ thực sự chú ý xem họ đi đâu, bởi vì họ quá mải suy nghĩ chuyện gì đó hay mải đếm tiền trong khi đi. Có rất nhiều người trong chúng ta bước đi trong sự lo lắng, bất an hay lạc trong suy nghĩ. Nhiều lần họ cứ va vào người tôi làm tôi rất bực! Tôi cứ phải tránh họ trước. Khi nhẹ nhàng nhường lối cho họ, trong tôi vẫn có chánh niệm. Khi thường xuyên làm như thế, tôi bắt đầu thấy mình hoan hỷ mỗi khi nhường lối cho người khác.
Khi bạn bắt đầu có chánh niệm, bạn sẽ thấy ra những điều này. Còn mỉm cười thì sao? Điều đó không làm cho mọi người vui khi nhìn thấy hay sao? Cái gì ưa nhìn hơn: một khuôn mặt cau có hay một khuôn mặt tươi cười? Bố thí không phải là chỉ mỗi tiền. Nhường chỗ cũng là bố thí. Cho những gì bạn có thể cho. Tất nhiên tất cả những điều đó phụ thuộc vào bản chất tâm của bạn. Nếu tâm bạn tiêu cực, bạn chẳng muốn cho gì cả. Khi tâm thiện nhiều, bạn sẽ thấy dễ cho hơn khi có người cần hay hỏi xin mình.

***

Chúng ta thực hành để có chánh niệm và làm vững mạnh các phẩm chất tâm thiện. Chúng ta chánh niệm được đề mục khi các căn cân bằng và đủ sắc bén để hay biết được. Chúng ta không thể thấy được chỉ vì mình muốn thấy. Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy được theo khả năng của mình.

***

Cố ý ra sức trong lúc thực hành không nhất thiết làm tăng cường chánh niệm được. Chúng ta sẽ chỉ đánh mất năng lượng đó. Chỉ khi có chánh niệm kết hợp cùng trí tuệ thì tâm mới có thêm sức mạnh. Khi chúng ta hành thiền với chánh kiến và thái độ đúng, tâm và các căn sẽ được tăng cường sức mạnh, tiếp thêm nhiệt tâm, ước muốn thiện (chanda) tiếp tục thực hành.

Thực hành với thái độ bị thúc đẩy bởi phiền não sẽ làm suy yếu thân tâm. Chúng ta cũng sẽ thấy chán hành thiền, và cuối cùng là mất hết cả nhiệt tâm tu tập.

Tại sao sự thực hành Pháp không theo thiền sinh ra ngòai cuộc sống được? Tại sao các thiền sinh không duy trì được nhiệt tâm thực hành một cách liên tục và bền bỉ? Bởi vì rất nhiều thiền sinh đến trường thiền là để nghỉ ngơi chứ không phải đến để học cách thực hành để phát triển trí tuệ. Một thiền sinh đặt mục tiêu hành thiền là để đạt được sự bình an và tĩnh lặng sẽ ngừng lại không còn nhiệt tâm hết mình nữa khi đã đạt tới trạng thái đó. Mặt khác, một thiền sinh đặt mục tiêu là để hiểu sự thật (chân lý) thì anh ta sẽ không bao giờ ngừng nghỉ cho đến khi hoàn toàn hiểu được chân lý ấy.  Nếu thiền sinh đã nắm vững được kỹ năng phát triển trí tuệ, họ sẽ có thể thực hành ở bất cứ nơi nào.

Thực tế, khi tâm đã tĩnh lặng và ổn định, đó là lúc thích hợp để quán chiếu pháp. Nó đã sẵn sàng để thực hành với trí thông minh và sẵn sàng để nghiên cứu, học hiểu về những gì đang diễn ra. Nếu chúng ta không nhận ra được đây là con đường cần phải đi ở thời điểm này, thì tâm tham sẽ nhảy vào ngay và hưởng thụ trạng thái bình an ấy, đó chính là điều mà rất nhiều thiền sinh đang vướng phải.

Tại sao chúng ta hành thiền? Chúng ta hành thiền để tâm tĩnh lặng sao? Hay là hành thiền để hiểu mọi thứ như chúng đang là? Tĩnh lặng không phải là mục đích cuối cùng mà chỉ là hiệu quả phụ của thiền chánh niệm. Khi chúng ta hiểu được bản chất của Pháp một cách thật sâu sắc, sự tĩnh lặng sẽ đến như một phần vốn có của trí tuệ

***

Các thiền sinh thường hay nhắm mắt khi ngồi thiền. Nhiều thiền sinh hành thiền đã lâu những vẫn chưa thành thục thiền trong lúc nhìn và nói chuyện, bởi vì họ chưa thực hành nhiều trong những lĩnh vực đó. Nhắm mắt hay mở mắt không quan trọng. Điều quan trọng là tâm đang có thiện hay bất thiện.

• Thấy và cố ý nhìn có giống nhau không?
• Bạn có thể thấy mà không phải cố ý nhìn không?

Hãy tự đặt các câu hỏi khi hành thiền. Sự hứng thú, tìm hiểu và trí tò mò này sẽ quyết định lĩnh vực chánh niệm của bạn mở rộng hay thu hẹp như thế nào. Nhưng nếu chỉ tự hạn chế mình trong phạm vi những câu hỏi như vậy thì bạn cũng chỉ tiến được đến mức như vậy không hơn.
Những ngày đầu tiên mới hành thiền, nghe mọi người nói về vô thường, tôi tự hỏi mình: “Có cái gì là thường còn mãi không nhỉ?”. Tôi thử nghiệm và tìm quanh... đến bây giờ tôi vẫn chưa tìm thấy, mặc dù có thể nó vẫn có ở đâu đó.

***

Nếu bạn chỉ chịu khó chờ đợi và quan sát, thì sẽ có chánh niệm nhiều hơn về đề mục và về tâm hay biết các đề mục ấy. Bạn sẽ biết chắc chắn khi nào có chánh niệm và khi nào thất niệm.

***

Lúc mới đầu thì chánh niệm dẫn đầu. Rồi sau khi đã thực hành một thời gian và đã có nhiều hiểu biết, chánh niệm và trí tuệ sẽ sanh khởi cùng nhau. Về sau, trí tuệ sẽ dẫn đầu. Nhưng không dễ để điều đó diễn ra. Chúng ta cần thu thập nhiều thông tin khi thực hành chánh niệm + trí tuệ.

***

Tại sao chúng ta phải thực hành pháp? Chúng ta thực hành bởi vì phiền não rất mạnh. Hãy quan sát tâm mình mà xem. Bất cứ cái gì diễn ra, tham hoặc sân đã có mặt sẵn ở đấy rồi đúng không? Hay có mặt chánh niệm  + trí tuệ? Khi có các trạng thái tâm bất thiện, tâm mình cảm thấy như thế nào? Tâm đang kinh nghiệm điều gì? Bạn cảm thấy bất mãn và khó chịu bởi kinh nghiệm đó hay không? Hay là bạn chấp nhận được những gì đang diễn ra như nó đang là? Tiếp tục thực hành với thái độ sai chỉ tiếp thêm nhiên liệu cho sân và cuối cùng bạn sẽ thấy chán nản với hoàn cảnh.

Khi có thái độ chân chánh cùng với trí tuệ, tâm có thể chấp nhận mọi thứ như nó đang là. Nhưng nên ghi nhớ rằng, trí tuệ chấp nhận bất cứ cái gì đang diễn ra và coi chúng như đề mục, nhưng trí tuệ không chấp nhận các tâm bất thiện trong tâm quan sát.

***

Một thiền sinh luôn quan sát tâm mình sẽ phát hiện ra ngay mỗi khi một trạng thái tâm bất thiện sanh khởi. Dường như có rất rất nhiều những trạng thái tâm như vậy diễn ra. Nếu thiền sinh nhìn những gì đang diễn ra với thái độ sai rằng những thứ này chỉ diễn ra với mình cá nhân anh ta thôi, thì anh ta sẽ bị buồn bực, thất vọng.

Khi chánh niệm và trí tuệ tăng trưởng, với thái độ đúng đắn làm việc ở đằng sau, thiền sinh thậm chí còn cảm thấy hoan hỷ (pīti somanassa) khi nhận diện ra những trạng thái tâm đó như chúng đang là. Một hình ảnh ví dụ: nếu anh cảnh sát bắt được tên trộm mỗi khi hắn ăn cắp, anh ta sẽ sớm được thăng chức. Nhưng nếu anh ta cứ để tên trộm lọt lưới thì anh ta sẽ bị giáng chức.

Ở đây tên trộm luôn luôn ăn trộm một cái gì đó. Bạn có kinh nghiệm đề mục cùng với phiền não (trong tâm quan sát) mỗi khi chúng sanh khởi hay không? Hay là bạn sẽ quan sát nó với trí tuệ? Hãy chú ý bằng chánh niệm + trí tuệ. Nếu không, phiền não sẽ luôn tiếp quản kinh nghiệm đó.

***

Khi bạn nhận ra suy nghĩ chỉ là suy nghĩ, tâm sẽ trở nên sáng suốt rõ ràng. Tâm sáng suốt bởi vì có chánh niệm. Nếu tâm không ghi nhận được là có suy nghĩ đang diễn ra, nó sẽ trở nên mờ mịt. Suy nghĩ không phải là vấn đề một khi bạn có thể nhận biết nó như một đề mục, cũng giống như khi bạn nhận biết hơi thở như một đề mục. Có thể bạn đã nghe ai đó nói rằng nhiều suy nghĩ quá thì không tốt và bạn sẽ không có được định tâm. Đừng ra những quyết định như thế dựa vào đề mục (nhìn từ phía đề mục). Điều quan trọng hơn là có chánh niệm hiện diện hay không. Nếu có chánh niệm, nó là tốt. Đề mục chẳng có gì liên quan đến bạn cả. Nếu chánh niệm mạnh, suy nghĩ sẽ tự nó bớt đi. Ngay cả khi đó, đó mới chỉ là sự giảm bớt của các suy nghĩ trên bề mặt mà thôi.

Những suy nghĩ liên quan đến công việc ở nhà hay những công việc còn đang dang dở chủ yếu là những suy nghĩ nông trên bề mặt. Khi những suy nghĩ này ít đi, bạn sẽ thấy được những suy nghĩ vi tế hơn, bạn cảm thấy dường như có rất nhiều thứ đang diễn ra. Bạn nhận ra có rất nhiều suy nghĩ hơn nữa ở mức vi tế. Hình như chúng còn tăng lên so với trước. Tâm nói liên tục từ khi bạn thức dậy cho đến khi bạn đi ngủ… đôi khi nó còn rất ồn ào. Khi tâm mới thức dậy nó nói gì? “Tôi cần vào nhà vệ sinh đây”…(cười).

Thực ra, những suy nghĩ này chỉ nhìn ra được khi niệm và định đã mạnh mẽ. Tâm luôn luôn gán nhãn, đặt tên, đánh giá, đọc biển báo hay đọc số, nói chuyện hay diễn dịch điều này điều kia. Khi chánh niệm yếu, bạn không thể thấy được tâm mình làm việc mỗi khi nó tiếp xúc với đối tượng. Bạn chỉ có thể thấy được những suy nghĩ vi tế này khi định và niệm tốt. Có rất nhiều suy nghĩ và chúng rất nhanh.

Đằng sau những cuộc đối thoại trong tâm đó là những quan kiến nằm sâu trong tâm chi phối. Tham nói một cách khác và sân nói một cách khác. Bạn có thể nhận ra được những điều này. Mới đầu, bạn lấy câu chuyện làm đề mục theo dõi. Về sau, khi bạn thấy bản thân suy nghĩ là một đề mục, bạn không còn chú ý nhiều đến dòng câu chuyện nữa. Bạn thấy được bản chất của suy nghĩ và suy nghĩ trở thành một đề mục để hay biết.

***

Chúng ta không có được điều gì đó chỉ bởi vì mình muốn nó hay chỉ bởi vì cách mình muốn nó. Chúng ta chỉ có thể có được khi những nhân duyên cho cái gì đó diễn ra đã có mặt đầy đủ; chúng ta chỉ có thể được nhiều như mức mình đã đầu tư vào thực hành, tùy theo khả năng của mình. Khi đã hiểu được điểm này, cái tâm tham muốn một điều gì đó hoặc một kinh nghiệm nào đó cuối cùng sẽ bớt đi. Nó sẽ được thay thế bằng ước muốn thiện muốn thành thục trong việc phát triển và tạo các điều kiện, nhân duyên cần  thiết thông qua thiền tập.

***

Câu hỏi cho những người cố gắng để “có Pháp”: thế đã bao giờ bạn tìm hiểu xem Pháp thực sự là gì chưa?

***

Không dễ để thấy được tâm. Khi đã thấy được tâm, cũng không dễ để hiểu biết sanh khởi. Phiền não còn khó để hiểu hơn nữa. Bạn phải luôn luôn, luôn luôn có hứng thú với tâm của mình và liên tục học hiểu về nó.

Nhân tố quan trọng nhất ở đây là có thái độ đúng: Những gì đang diễn ra là pháp, mang bản chất của pháp, là đề mục để hay biết và quan sát. Khi đã có chánh kiến và thái độ đúng hiện diện, hãy chăm chỉ chánh niệm từng giây phút. Đừng can thiệp vào đề mục. Hãy để bất cứ cái gì diễn ra được diễn ra tự nhiên, bởi vì nó chẳng có gì để làm với “bạn” cả. Khi có đà chánh niệm, lĩnh vực chánh niệm sẽ mở rộng và trí tuệ chắc chắn sẽ đi theo.

Khi tâm quan sát và trí tuệ đã lớn mạnh, nó sẽ bắt đầu thấy ra những thủ đoạn và mánh khóe của phiền não. Còn bây giờ, phiền não đã chặn sẵn ở mọi cửa, bởi vì tâm chúng ta vốn là sân chơi quen thuộc của nó bao lâu rồi. Trí tuệ mới sanh lên chưa đủ khôn ngoan để chống lại phiền não đang chạy vòng vòng quanh nó. Nhưng không cần phải thất vọng về điều đó – bạn có thể nghiên cứu và học từ mỗi kinh nghiệm khi có chánh niệm.

***

Hầu hết mọi người chỉ chú ý đến các khái niệm (paññatti). Thực tại chân đế (paramattha) không thể phân biệt được bởi một cái tâm còn si. Chánh niệm hay biết đề mục đang diễn ra hay sanh khởi, nhưng chỉ có trí tuệ mới xuyên thấu vào những gì đang diễn ra để hiểu được các đặc tướng tự  nhiên của chúng.

Hãy nghĩ đến điều này: nếu chúng ta có một mức định tâm mạnh, gắn chặt (vào đề mục) nhưng không có chánh kiến đi kèm, thay vì học hiểu về bản chất của phiền não và phát triển kỹ năng chẻ mỏng dần nó ra – thì định tâm đó có thể chế tạo ra được những kinh nghiệm chúng ta vẫn hằng ước muốn! Chúng ta có thể tạo ra được bất cứ cái gì, ngay cả ý niệm về Niết Bàn, bằng mức định tâm mạnh của mình. Chính vì vậy mà tôi rất cảnh giác đối với loại định tâm này. Nó có thể tạo ra bất cứ cái gì nó muốn!

***

Nếu bạn đi theo dòng câu chuyện trong tâm, bạn sẽ chỉ chấp chặt vào những khái niệm mà thôi. Quá khứ và tương lai chỉ có ở trong dòng câu chuyện trong tâm. Bản chất của những gì đang diễn ra là tâm, và tâm thì đang sanh khởi trong hiện tại. Vậy khi bạn biết có suy nghĩ và khi nào có suy nghĩ, đó là chánh niệm đang làm việc.

Đừng vội đánh giá ngay rằng tâm mình đã bị xáo động mỗi khi bạn thấy suy nghĩ. Ở đó có chánh niệm bởi vì tâm đo lường được mức độ định tĩnh. Bạn chỉ có thể nói rằng tâm không tĩnh lặng khi nào không có chánh niệm. Nhưng khi tâm hay biết được suy nghĩ, ở đó đã có một sự ổn định nội tâm nào đó rồi.

***

Tâm có thể và sẽ tạo ra vô số thứ và sẽ tin vào những gì nó đã tạo ra chừng nào nó chưa thấy được những tầng mức vi tế trong tâm.

***

Tôi sẽ nói qua về cách thức tưởng và trí tuệ làm việc như thế nào. Bạn nghe một tiếng động. Giả sử tâm đã ghi nhận được tiếng động như một đề mục. Vậy tâm có diễn dịch tiếng động đó là tiếng chim, tiếng chuông hay tiếng con dế kêu không? Tưởng (saññā) diễn dịch tiếng động và tạo nên ý nghĩa cho nó, trong khi trí tuệ (paññā) hay biết tiếng động chỉ là tiếng động. Bạn có nghĩ là tiến trình này diễn ra tách biệt từng cái một hay không? Không. Nó đều gộp chung lại và diễn ra cùng với nhau, cùng một lúc. Khi bạn có thể nhìn thấy những phần khác nhau trong tâm làm việc theo cách này, bạn có thể thấy được rất  nhiều thứ ngay lập tức. Không cần thiết phải chánh niệm về tiếng động và khái niệm của tiếng động ấy một cách tách biệt. Chúng xảy ra cùng với nhau và tâm biết điều đó.

Bạn có phải cố để loại bỏ khái niệm không? Không! Nên nhớ rằng chúng ta thực hành không phải là để loại bỏ tưởng (saññā) ở đây. Chúng ta chỉ cố gắng giảm thiểu việc lấy khái niệm làm đề mục , nhưng khái niệm vẫn cần có ở đó. Không có khái niệm thì thậm chí đi bộ hay leo cầu thang chúng ta cũng chẳng thể làm nổi. Khi lên cầu thang, cái tưởng đã nhớ rõ khoảng cách giữa các bậc. Hãy thử bước cao hơn bậc thang mình hay bước vài cm mà xem, bạn sẽ bị bước hụt ngay. Cái chúng ta cần làm chỉ là chú ý nhiều hơn đến thực tại chân đế (paramatha) mà thôi.

Tưởng (saññā) làm công việc ghi nhớ vào khoảnh khắc có sự tiếp xúc với đối tượng. Khi có sự tiếp xúc với đối tượng, ngay đó đã có cái tưởng về nó rồi.  Làm sao chúng ta có thể xóa được sự diễn dịch này trong khi nó chỉ là một phần tự nhiên của tâm? Các thiền sinh có thể cố ghi nhận thuần túy trong tâm: tiếng động, tiếng động…vẫn có thể làm được điều này khi họ chú tâm tập trung. Họ có thể hoàn toàn mất khái niệm “con chim”, “con dế” trong tiến trình nhận thức và họ cứ nghĩ rằng đó là cách họ an trú trong hiện tại . Khi chúng ta mất hết sự nhận biết đề mục đó là gì thì đó vẫn chưa phải thực sự là hiện tại, và không thể có bất cứ cơ hội nào cho trí tuệ sanh khởi.

Thiền sinh nào đến đây chỉ thực hành niệm thầm nhìn, nhìn, nhìn…nghe, nghe, nghe…sẽ thấy mình không thể thực hành được nữa khi rời khỏi trường thiền. Vì sao? Chúng ta cần tưởng để làm các công việc. Chẳng lẽ chúng ta không biết giá mặt hàng mình muốn bán cho khách là bao nhiêu ư? Làm sao chúng ta có thể trả lời được mà không dùng đến khái niệm hoặc chỉ nghe mỗi âm thanh mà chẳng hiểu nghĩa của nó là gì? Đó không phải là thực hành Pháp.

Chúng ta biết tâm hay biết (viññāna-thức), chúng ta hay biết được các tác ý, chúng ta hay biết được cảm xúc và cảm giác (vedanā-thọ), nhưng chưa chắc chúng ta đã biết tưởng (saññā) hoạt động như thế nào. Rất ít người nhận thấy tưởng hoạt động ra sao. Hãy lấy ví dụ lần đầu tiên bạn gặp một người nào đó. Ngày hôm sau gặp lại bạn có nhớ anh ta không? Làm sao mà nhớ được? Bạn nhớ bởi vì có tưởng làm việc.  Bạn có thể hiểu được và thấy được nó khi quan sát sự hoạt động của tâm mình.

Tất nhiên nếu bạn thực hành theo kiểu tập trung vào một đề mục để tâm không thể suy nghĩ được nữa, thì cũng sẽ không thể kết nối giữa đề mục và khái niệm được. Nhưng làm như thế cơ bản chỉ là chặn một tiến trình tự nhiên, chặn không cho tưởng hoạt động. Khi không thể suy nghĩ gì được thì không có một nhân tố trí tuệ nào trong đó! Không còn diễn dịch ý nghĩa nữa chỉ vì tưởng đã bị đè nén thì sẽ không thể có thêm được chút hiểu biết nào về đề mục hay tâm và mối quan hệ nhân quả nữa. Tất nhiên, tham và sân không thể xâm nhập được, thế nhưng còn tâm si thì sao? Tâm si có mặt đầy ở đó.

Vì vậy, khi quan sát, đừng cố phân tách ngũ uẩn: sắc (rūpa), thọ (vedanā), tưởng (saññā), hành (sankhāra), thức (viññāna). Thay vào đó, bạn có thể nhìn để thấy mỗi uẩn thực hiện công việc của mình như thế nào. Ví dụ, nếu bạn bóc mái một nhà hàng bỏ đi và nhìn vào từ trên xuống, bạn sẽ thấy ông chủ ngồi ở quầy, phục vị bàn đi đi lại lại, các khách hàng đang ăn uống, và đầu bếp đang nấu nướng. Có phải mỗi người chỉ bắt đầu làm việc của mình sau khi người khác đã làm xong việc của họ hay không? Không! Tất cả đều đang diễn ra cùng một lúc. Đối với ngũ uẩn cũng y hệt như vậy.

Tóm lại, thiền chánh niệm không phải là chấm dứt một tiến trình (thân và tâm) đang diễn ra mà là để hiểu biết thực tại hay sự thật của tiến trình đó. Người ta thường cố gắng chặn đứng hoặc cắt đứt tiến trình khi họ nhận thấy có quá nhiều khái niệm. Trí tuệ không thể sanh khởi theo cách đó được. Trí tuệ chỉ đến khi nhìn thấy rõ các chức năng của tâm đang làm công việc của chúng và tham và sân không còn theo sát đằng sau. Khi đã thực hành rất nhiều, bạn có thể thấy được đề mục, thấy được tâm đang cảm thấy ra sao, phản ứng thế nào, cách nó đang làm việc ra sao. Lúc đầu có thể bạn sẽ nhận biết luân phiên giữa các đề mục, rồi biết tâm, rồi lại biết đề mục, rồi lại chuyển sang tâm…

Cách bạn thực hành sẽ phải thay đổi từ trình độ này lên trình độ khác. Khi học lên cấp hai rồi bạn có phải đánh vần từng chữ như khi học lớp một nữa hay không hay là đọc cả câu? Khi lên đại học bạn có phải học như cấp hai nữa không? Cách bạn hiểu câu chữ cũng cần phải thay đổi. Cũng như vậy, cách bạn hành thiền cũng tiến triển để tương xứng với sức mạnh của trí tuệ trong tâm bạn. Không cần phải chạy quanh đánh vần từng chữ một “m-e-o huyền mèo” nữa mà chỉ cần đọc thẳng “mèo”. Hiện giờ, tôi thấy những thiền sinh mới đến học thiền lần đầu và họ bắt đầu chánh niệm chỉ với một đề mục. Lần sau đến, họ lại vẫn bắt đầu lại với một đề mục. Có cần phải quay trở lại trình độ ấy khi bạn có thể thấy được đề mục, cảm giác tâm (cảm xúc), tâm hay biết, tất cả đang làm việc với nhau? (thiền sinh trả lời: nhưng mà chúng con vẫn chưa tới trình độ đó). Tại sao bạn biết mình chưa tới đó? Cần phải có sự liên tục và đà quán tính của chánh niệm. Bởi vì không có sự liên tục và đà quán tính ấy nên trí tuệ không tăng trưởng. Công việc của tâm là biết đề mục chỉ là đề mục, tâm chỉ là tâm, và cách chúng đang làm việc như thế nào. Khi tuệ giác này mạnh hơn, tâm sẽ không còn hành thiền kiểu như trước nữa.

***

Thầy tôi thường nói rằng chúng ta không gán những đặc tướng (vô thường, khổ, vô ngã) cho các kinh nghiệm hay đề mục, mà để những đặc tướng đó trở nên rõ ràng trong tâm mình. Nếu chúng ta nghĩ về các đặc tướng, thì sau đó chúng ta sẽ chạy quanh theo đề mục và nghĩ “đây là vô thường này”, “đây là khổ này”, “đây là vô ngã này”. Mọi người muốn gán vô thường, khổ, vô ngã cho một mẩu kinh nghiệm nhỏ bé của họ. Trong thực tế, các đặc tướng của mọi hình thức tồn tại là các tuệ giác vô thường, khổ, vô ngã (anicca, dukkha, anatta ñānas) trở nên hiển hiện trong tâm vào khoảnh khắc thấy biết rõ ràng, khi các điều kiện, nhân duyên đã chín muồi và không ai có thể nghi ngờ gì về tuệ giác đó. Những tuệ giác này không hề đến thông qua tiến trình suy nghĩ.

***

Thực sự thì “Tôi” chỉ là một ý niệm, một điều mình tin (là có thật). Bạn cần nghe để biết điều đó, nhưng phải tự mình chứng nghiệm nó. Khi bạn chứng nghiệm, cái hiểu biết ấy sẽ mở ra với bạn. Tôi không thể nói trước cho bạn nhiều về điều đó. Tôi chỉ có thể nói cho bạn khi bạn kinh nghiệm nó. Khi đó bạn sẽ hiểu và nó trở nên rất rõ ràng, nhưng trước đó thì vẫn chỉ là cái hiểu lý thuyết thôi.

***

Các thiền sinh thường nói tâm họ chạy ra ngoài, hay các suy nghĩ của họ chạy về với gia đình khi họ đang hành thiền ở đây. Tâm không có tính chất là “chạy lang thang bên ngoài”, “đến đây” hay “về nhà”. Thực tế thì chỉ là các suy nghĩ và ký ức của nhà mình sanh khởi trong tâm và rồi chúng cũng đi mất. Bạn phải nhìn tâm mình một cách đúng đắn như vậy ngay từ lúc đầu. Tâm không hề “đi ra” hay “lang thang” gì cả.

Nếu bạn có suy nghĩ rằng tâm lang thang hay đi ra ngoài, thì bạn sẽ sử dụng rất nhiều năng lượng để “bắt nó quay lại”. Làm vậy thật là mệt mỏi! Niềm tin sai lầm rằng bạn phải bắt cái tâm “đi ra ngoài” “quay lại” cũng thể hiện tâm mình như một thực thể thường còn. Mà nó đâu phải như thế. Tâm chỉ có đặc tính là sanh và diệt. Cách đúng đắn nhất để nhìn tâm mình là thấy rằng các suy nghĩ chỉ sanh khởi theo đúng bản chất tự nhiên của chúng. Chỉ nhờ nhận ra bằng chánh kiến rằng tâm chỉ sanh khởi, sanh khởi và sanh khởi…thì trí tuệ mới bắt đầu hiểu được bản chất vô thường (anicca).

***

Kinh nghiệm sự sanh diệt khác xa với hiểu biết về sanh diệt. Một thiền sinh có thể kinh nghiệm sanh diệt rất, rất nhiều lần trước khi hiểu ra được điều gì đó. Cái chúng ta muốn là trí tuệ và hiểu biết. Các thiền sinh thường đi theo các kinh nghiệm của mình và nghĩ rằng: “Tôi đã thấy được vô thường”. Loại suy nghĩ đó (với trí tuệ phiến diện, chưa đầy đủ) làm chấm dứt con đường ngay tại đó, khiến những hiểu biết khác không thể đến tiếp. Như vậy làm sao có được hiểu biết thực sự nào nữa?

Hãy nhớ rằng phiền não cũng nhìn được sự diệt. Chẳng hạn, một tâm tham cũng nhìn thấy sự diệt trong khi ăn, và hậu quả là còn muốn ăn thêm nhiều nữa! Vậy chúng ta có thể nói đó là “vô thường” mỗi khi nhìn thấy sanh diệt được không? Tôi vừa cho các bạn thấy tâm tham cũng nhìn được sanh diệt ra sao rồi đó.

Xin đừng quả quyết rằng mình đã hiểu được bản chất sanh diệt sau khi mới nhìn được một chút. Sự quả quyết rằng mình đã hiểu sẽ đóng chặt cánh cửa lại không cho bạn nhìn thấy thêm được nữa. Sự hiểu biết thực sự sẽ sanh khởi khi tâm đã sẵn sàng, sau khi đã trải nghiệm rất, rất nhiều kinh nghiệm. Trách nhiệm của bạn là nuôi dưỡng chánh niệm và chánh kiến.

***

Trong thực tế, cùng một kinh nghiệm y hệt như vậy không bao giờ đến lại nhiều lần mãi. Mỗi kinh nghiệm chỉ xảy ra một lần duy nhất, trong khoảnh khắc hiện tại. Bạn nghĩ kinh nghiệm đó diễn ra lại bởi vì tâm bạn cộng thêm những ký ức và kinh nghiệm quá khứ vào trong kinh nghiệm hiện tại. Tất cả những điều đó đều là các khái niệm (paññātti) đang làm việc. Thực tại chân đế (paramatha) thì luôn luôn mới. Một kinh nghiệm chỉ sanh khởi một lần duy nhất, trong khoảnh khắc hiện tại. Công việc của bạn là hay biết và kinh niệm nó mỗi khi nó sanh khởi.

Ví dụ, nếu muỗi đốt bạn một lần, bạn có bỏ qua được hay không? Được. Nếu hai con đốt bạn thì sao? Không, không thể chịu thêm được nữa! Đó là vì bây giờ bạn sẽ nghĩ: “Ôi, nhiều muỗi quá”. “Nhiều” hay “lâu” tất cả chỉ là những khái niệm.

***

Cái quan trọng hơn kinh nghiệm là hiểu biết của bạn về kinh nghiệm ấy. Chỉ những người quán chiếu, tìm hiểu thì mới nhận ra được điều này. Bạn bắt đầu bằng câu hỏi: Cái này là cái gì? Cái gì đang diễn ra? Tại sao nó diễn ra?

Nếu không có loại trí tuệ quán chiếu này thì liệu có thể có hiểu biết nào không? Thiền Vipassanā là loại thiền đầu tư vào trí thông minh và trí tuệ để phát triển thêm trí tuệ. Cái gì là đề mục và cái gì là tâm? Bạn có biết điều này một cách rõ ràng hay không? Bạn cần nhận ra được điều này khi thực hành. Đó là những câu hỏi bạn cần phải đặt, phải tìm hiểu và nghiên cứu với tâm rộng mở và quán sát.

Sự hiểu biết của bạn còn trở nên rõ ràng hơn khi bạn thực hành trạch pháp trong lúc tâm tĩnh lặng. Bạn sẽ chỉ chánh niệm một đề mục thôi sao? Bạn có thể hay biết được bao nhiêu đề mục trong một khoảnh khắc? Các đề mục đều sanh khởi ở 6 cửa giác quan đúng không? Hãy cố gắng tìm hiểu.

Nếu bạn chỉ hay biết mỗi hơi thở ở mũi và loại trừ tất cả các đề mục khác, bạn có thể nói là mình hoàn toàn ở trong hiện tại được không? Bạn chỉ có thể nói mình thực sự an trú trong hiện tại khi bạn hay biết được danh và sắc trong khoảnh khắc ấy. Bạn có thể nói là mình vẫn chánh niệm trong khi chỉ biết một đề mục và trượt mất 99 đề mục khác? Hãy suy nghĩ về điều đó. Chỉ khi bạn hay biết được rất nhiều đề mục, rất nhiều tiến trình thì bạn mới có thể nói là mình đang chánh niệm.

***

Mọi người cứ nói giữ chánh niệm khó quá. Thực ra không đến nỗi khó duy trì chánh niệm như vậy. Mọi người chỉ nghĩ nó khó khi họ không có chánh niệm về đề mục họ ưa thích.

Bạn có thể chánh niệm về bất cứ đề mục nào sanh khởi. Đề mục không quan trọng. Điều quan trọng hơn là có chánh niệm trong tâm và bạn học hỏi cách duy trì nó. Vậy làm thế nào để chánh niệm tăng trưởng? Bạn làm việc đó bằng cách:

• Có kỹ năng thực hành khéo léo,
• Biết cách duy trì chánh niệm,
• Biết cách phát triển trong thiền tập.

Đó là những dấu hiệu của trí tuệ.

***

Luôn luôn có sự tiếp xúc với đề mục, nhưng phiền não sẽ không có cơ hội để sanh khởi chừng nào có chánh niệm, sự ổn định nội tâm và trí tuệ manh mẽ. Công việc của bạn là chăm chỉ làm lớn mạnh những phẩm chất tâm linh đó: chánh niệm, ổn định nội tâm và trí tuệ.

***

Bạn có mong cầu, khao khát Pháp không? Hay bạn muốn học cách thực hành thiền? Tâm tham chỉ muốn có Pháp và coi đó như mục đích cuối cùng. Tuy nhiên, chỉ có sự khéo léo và pháp hành đúng sẽ làm tăng trưởng đức tin và trí tuệ.

***

Bạn muốn có Pháp nhưng lại không thể có được Pháp. Tại sao? Bởi vì cái bạn đang làm thực ra là đang đi chệch hướng. Có cái gì đó thiếu sót và không hoàn chỉnh trong cách thực hành. Trí tuệ thấu hiểu cách thực hành khéo léo vẫn còn rất mỏng manh. Khi loại trí tuệ hiểu cách thực hành này đã đầy đủ, thì những tuệ giác xuyên thấu vào Pháp sẽ đến theo một cách tự nhiên.

Khi bạn áp dụng một cách thực hành nào đó, nhưng vẫn không thấy có lợi ích tương ứng với những gì mình đã đầu tư, hãy đặt các câu hỏi, thẩm xét, nghiên cứu những gì đang diễn ra và hãy thảo luận với thiền sư. Đó là cách để nắm vững được kỹ năng thiền tập.

***

Một số thiền sinh nói với tôi rằng định tâm của họ biến mất khi họ ngáp, nuốt nước bọt hay cử động. Đó là loại định nào vậy? Nó không thể được coi là sự ổn định nội tâm khi dễ bị xáo trộn như vậy. Nó là loại định không bền vững mà chỉ sanh khởi khi có đủ điều kiện thích hợp hỗ trợ.

Một mức định tâm mạnh, ổn định và liên tục chỉ được phát triển đối với những người có chánh niệm tự nhiên về bất cứ kinh nghiệm nào sanh khởi hoặc những người đã có thể coi tất cả mọi thứ chỉ là những đề mục cần chánh niệm, với trí tuệ. Tâm sẽ tự làm công việc của chính nó dù chánh niệm có mặt ở đó hay không. Không có chánh niệm, tâm sẽ chỉ chạy theo lệnh của phiền não. Với chánh niệm, tâm sẽ làm công việc của trí tuệ.

***

Một thiền sinh kể rằng cô ta nghĩ rằng mình có chánh niệm trong lúc ăn, nhưng chỉ đến khi ăn xong rồi cô ta mới nhận ra rằng thực ra mình đã ăn với tâm tham mà không biết.

Hãy suy nghĩ điều này: tại sao cô ta cứ nghĩ mình có chánh niệm trong khi thực ra là không có? Lúc ấy cái gì xảy ra trong tâm? Đó là bởi vì cô ta không thường xuyên kiểm tra lại xem có cái gì diễn ra ở trong tâm, mà chỉ chú tâm vào tiến trình ăn uống. Và cũng bởi vì cô ta không chú ý đến tâm thiền của mình.

***

Một thiền sinh nói: “Khi tôi nhìn người khác ăn uống không có chánh niệm, ăn tham, tôi lại chánh niệm hơn. Chánh niệm tăng lên”.

Một người trí tuệ sẽ tận dụng từng kinh nghiệm để phát triển định, niệm và trí tuệ. Người không có trí tuệ thì chỉ phản ứng lại tình huống ấy bằng tâm sân.

Hiểu biết về Pháp của chúng ta sẽ tăng trưởng khi chúng ta sử dụng chánh niệm+trí tuệ mỗi khi nghe, nhìn hoặc tiếp xúc với bất cứ cái gì. Điều quan trọng nhất là chánh niệm+trí tuệ luôn luôn được chuẩn bị và sẵn sàng cho bất cứ tình huống nào. Trách nhiệm của chúng ta là quan tâm săn sóc và phát triển cái tâm phân biện Pháp, vốn hiện hữu ở mọi nơi, mọi lúc.

***

Bạn ngủ như thế nào? Ở đây tôi không hỏi bạn ngủ nằm ngửa, nằm sấp hay nằm nghiêng. Tôi hỏi về tâm bạn. Bạn có buông bỏ tất cả mọi thứ khi ngủ không? Bạn có suy nghĩ không? Bạn có chánh niệm không? Tôi thích hỏi các thiền sinh câu hỏi mà thầy tôi vẫn thường hỏi tôi: “Điều cuối cùng con chánh niệm được trước khi ngủ mất là gì?”, hay “Cái đầu tiên con chánh niệm được khi mới thức dậy là gì?”. Câu hỏi này là muốn chỉ dẫn cho bạn biết cách thức cần phải thực hành ra sao: chánh niệm cho tới tận lúc ngủ, và bắt đầu ngay từ khi mới thức dậy. Nghĩa là trừ thời gian ngủ, còn lại giây phút nào cũng là thời gian để hành thiền.

Khi ngủ dậy, bạn có nhận ra là mình tỉnh ngủ không? Khi nào bạn mới nhận ra đầu tiên là mình tỉnh dậy? Lúc đó bạn có thực sự hay biết không? Tất nhiên, các thiền sinh đều thức dậy, nhưng họ không nhận ra là mình tỉnh dậy. Nhiều người bắt đầu làm việc này việc kia trong phòng mà chẳng hề nhận ra là mình đã tỉnh dậy. Chánh niệm còn chưa đến. Một số người nhận ra là họ đã tỉnh dậy, nhưng sau đó lại quên mất. Họ chỉ có chánh niệm trở lại một lần nữa khi có mặt trên thiền đường!!!

Đây là một gợi ý: ngay khi vừa thức dậy, đừng vội bắt đầu làm cái gì cả. Thiền sư Sayadaw U Jotika dạy rằng hãy tập hít thở sâu một cách có ý thức khoảng 4-5 phút trước khi ngồi dậy. Khi đó tâm sẽ tỉnh táo hơn. Hãy chắc chắn rằng đừng hít thở quá nhẹ nhàng, nếu không bạn sẽ lại buồn ngủ trở lại. Rồi sau đó, hãy ngồi dậy với chánh niệm, đi lại hay làm những việc cần làm. Bất cứ cái gì bạn chánh niệm được cũng OK, miễn là có chánh niệm.

***

Chánh niệm trở thành liên tục thì không hề giống như may mắn trúng số độc đắc. Nó đều phải có nhân duyên cho việc ấy diễn ra. Nếu bạn thấy đà chánh niệm không còn ở đó nữa, đầu tiên là phải chấp nhận: tất cả mọi thứ đều là tự nhiên và điều tự nhiên đó đang diễn ra với bạn thôi mà. Thế rồi hãy kiểm tra lại nguyên nhân. Sau rất nhiều kinh nghiệm đà chánh niệm lên rồi xuống, bạn sẽ bắt đầu thấy được các nhân duyên, các điều kiện trong tâm khiến cho chánh niệm trở nên liên tục hơn, và thấy cả những điều kiện, nguyên nhân khiến đà chánh niệm bị đứt quãng.

***

Mọi người thường chỉ tỉnh thức và cảnh giác khi họ bị một loại khó chịu hay đau khổ nào đó. Họ sẽ thôi không chú ý nữa khi đã cảm thấy thỏa mái trở lại. Thật không may, chúng ta chỉ thực hành khi có cái gì đó không ổn. Chính vì thế Đức Phật đã để lại cho chúng ta rất nhiều lời khuyên dạy phải chăm chỉ tinh tấn, không nên dễ duôi (appamāda).

***

Đức Phật không sách tấn chúng ta thực hành trong mọi lúc để chẳng được cái gì cả.  Bởi vì Ngài hiểu rất rõ về tâm si nên Ngài mới để lại cho chúng ta những lời dạy như vậy. Cứ thử dừng lại không thực hành nữa mà xem, bạn sẽ thấy được sức mạnh của phiền não ngay.

Nếu bên phần trí tuệ ngừng lại, cả một bè lũ phiền não sẽ kéo đến và che kín mọi thứ ngay. Đó là điều tôi muốn nói là không thể tạm dừng nghỉ ngơi và “Đừng bao giờ bỏ cuộc”. Hoặc là sức mạnh quán tính ở phía trí tuệ, hoặc là ở phía phiền não. Nếu bạn rời bỏ sức mạnh quán tính của trí tuệ một chút, bạn sẽ phải mất rất nhiều công sức để bắt đầu lại. Khởi đầu lại chẳng dễ tý nào. Chính vì vậy bạn không thể để nó dừng lại.

***

Bạn có cảm nhận được niềm hạnh phúc và niềm vui hứng thú khi quan sát với chánh niệm+trí tuệ không?

***

Mỗi khi chúng ta thực hành Pháp, thân và tâm chúng ta sẽ có sự an lạc.  Tuệ giác không thể sanh khởi khi chúng ta hành thiền với sự khó chịu, bất mãn của thân và tâm.

***

Một thiền sinh cảm thấy rất ấn tượng với những gì mình thấy chỉ trong 15 phút chánh niệm liên tục. Hầu hết mọi người đang vùng vẫy hay lạc lối trong suy nghĩ trong hầu hết thời gian, nhưng thật sự là kinh ngạc về những gì chúng ta phát hiện ra chỉ trong 15-20 phút có chánh niệm liên tục. Hãy tự mình thử và thấy điều đó.

***

Bạn chỉ muốn nghe thuyết pháp, nhưng lại không muốn nghe tiếng lũ chim kêu trên thiền đường. Bạn nghĩ: “Ôi, bọn này ồn ào quá”. Tiếng thuyết pháp là một âm thanh, và tiếng lũ chim là một âm thanh khác. Người có thông tin đúng sẽ sử dụng bất cứ đề mục nào để phát triển định, niệm và trí tuệ trong khi hành thiền. Người không có thông tin như thế sẽ chỉ khởi phiền não vì những âm thanh ấy.

***

Thay vì cứ cố đi tìm xem những tiếng động từ đâu đến, hãy ghi nhận tiếng động đó như một đề mục. Khi bạn chánh niệm về tiếng động như đề mục, hãy chánh niệm cả về cái tâm hay biết tiếng động nữa. Tâm chánh niệm ấy đang hay biết cái gì? Nó đang hay biết đề mục. Bạn có thể ở bên phía tâm hay biết hoặc nhìn cả đề mục và tâm hay biết cùng nhau.

***

Khi mọi người trải qua những đau đớn về thân thể hay tinh thần, họ không có hứng thú gì và chẳng học hỏi được gì. Họ chỉ muốn thoát khỏi cái đau.

***

Nếu bạn bị đau khi ngồi thiền, hãy nhìn cái tâm muốn giảm nhẹ cái đau ấy bằng cách nhúc nhích, chuyển tư thế.  Tại sao nó phản ứng theo cách ấy? Khi sự phản ứng giảm bớt, cái nhìn của mình với đề mục như thế nào? Bạn cần nghiên cứu phản ứng của mình đối với cái đau từ những góc nhìn khác nhau và quan sát các phản ứng với tất cả mọi biểu hiện của chúng: các suy nghĩ và cảm xúc có liên hệ với nhau như thế nào hay những quan kiến và thái độ đằng sau nào đang lộ mặt ra qua các suy nghĩ? Chỉ cần có một chút không thích nhỏ nhất nào với đề mục, tâm bình phẩm bên trong sẽ đổi giọng theo cách đó ngay.

Bạn có thể thực sự hay biết được cái tâm bình phẩm này. Không cần phải cố gắng ngăn chặn suy nghĩ hay tâm nói chuyện, bạn có thể thấy những cuộc đối thoại bên trong tâm từ sáng đến tối.  Bạn quan sát để hiểu tâm mình như nó đang là, chứ không phải là làm cho bất cứ cái gì biến mất.

***

Khi trí tuệ mới nhú đầu lên một chút, phiền não đã cầm cái búa nện bẹp nó xuống ngay rồi. Ngay khi bạn mới hiểu hiểu ra được một chút xíu, tâm đã bắt đầu bép xép: “Tôi biết, tôi biết rồi”. Nếu bạn muốn thấy được sức mạnh của sự định khuôn này, hãy nhìn vào thói quen nói “tôi biết, tôi biết” này của tâm. Khi trí tuệ hiểu ra điều gì đó, cái suy nghĩ “tôi biết” này bám sát theo sau liền. Như thế thì làm sao bạn sử dụng trí tuệ đó được?

Chính vì thế tôi thường cảnh báo: đừng coi thường phiền não. Chúng ta không biết nó hoạt động nhiều như thế nào đâu. Trí tuệ chỉ có được cơ hội bằng mỗi cách là khởi lên, khởi lên lại nhiều lần.

***

Đừng nghĩ quá cao về mình. Cái gì có nhiều hơn: thời gian mà hiểu biết hay sự chứng nghiệm có mặt trong tâm hay thời gian không có hiểu biết và sự chứng nghiệm nào?

***

Chánh niệm không đi tìm các giải pháp. Chỉ có trí tuệ mới tìm được những giải pháp. Công việc của chánh niệm là hay biết những gì đang diễn ra; chỉ mỗi điều này thì không thể ngăn chặn được những phiền não loại mạnh; chỉ có trí tuệ mới làm được công việc ấy.

***

Tâm si (moha) mở cửa để cho tất cả mọi loại phiền não kéo vào.

***

Khi tâm thích hay không thích một đề mục nào đó, nó không còn nhìn thấy đề mục như nó đang là nữa hay như là pháp nữa. Khi tâm bị thúc đẩy bởi tham, thì đề mục nó thấy là đề mục của tham. Khi tâm bị thúc đẩy bởi sân, thì đề mục nó thấy là đề mục của sân. Tâm không còn quan sát hay tiếp tục chánh niệm về đề mục ấy như nó đang là.

Giống như khi đeo kính màu xanh, tất cả cái gì chúng ta nhìn thấy cũng có màu xanh. Như vậy, chúng ta không thể thấy được các đặc tính tự nhiên của những gì mình nhìn. Chính vì vậy việc đầu tiên là chúng ta cần kiểm tra lại cặp kính của mình hay kiểm tra lại xem cách mình quan sát đề mục như thế nào.

***

Bất mãn với một việc người khác đã làm, một thiền sinh hỏi: “Tại sao anh ta lại làm như thế nhỉ?”. Việc quan trọng hơn là đầu tiên người thiền sinh đó phải nhận ra tại sao mình lại hỏi câu hỏi đó.

***

Có sự hiểu biết rằng tâm sân cũng là một đề mục. Đối với thiền niệm tâm (cittānupassanā) và niệm pháp (dhammānupassanā), bất cứ cái gì được quan sát (cơn sân, chẳng hạn) cũng là đề mục. Khi nói không nên có phiền não trong tâm, nghĩa là không nên có phiền não trong tâm quan sát. Không có cách nào để ngăn chặn được phiền não khỏi diễn ra trong tâm của một phàm phu (puthujjana) - người chưa từng kinh nghiệm được bất kỳ tầng giác ngộ nào.

Nhưng tâm quan sát có thể rất khéo léo và không có phiền não khi nó biết cách quan sát. Với thái độ đúng và không có phiền não trong tâm quan sát, tâm sẽ tĩnh lặng và bình an. Khi đó trí tuệ sẽ có cơ hội để mở rộng.

***

Bạn cần hiểu tâm sân một cách sâu sắc. Để làm được điều đó, bạn cần phải xây dựng niệm, định và trí tuệ, bạn phải quan sát và học hiểu mỗi khi sân sanh khởi. Bạn muốn biết bản chất của sân và tất cả mọi thứ có liên quan đến hiện tượng đó. Cái gì diễn ra trong thân và cái gì diễn ra trong tâm khi phiền não ấy sanh khởi? Loại suy nghĩ nào nổi lên? Bản chất của sân là gì?

Bạn (tâm) là một người quan sát độc lập, nghiên cứu cơn sân này từ bên lề, khi nó đang diễn ra với suy nghĩ rằng nó cũng mang bản chất của Pháp, không phải cơn sân của bạn hay bạn đang sân. Những tính chất khác nhau của sân là gì? Nó làm việc như thế nào? Cái gì diễn ra trong tâm? Một cái tâm bị thúc đẩy bởi phiền não thì suy nghĩ như thế nào? Bạn nghiên cứu và học hỏi bất cứ lúc nào nó diễn ra, nghiên cứu tới tận những chi tiết nhỏ nhất. Không có cách nào phiền não lớn mạnh được nếu bạn quan sát nó mỗi lần nó sanh lên. Nó không thể ngóc đầu lên được.

Những tâm sân loại thô thì rất rõ, tất nhiên, lúc đầu thực hành bạn có thể không nhận ra được những thể loại sân vi tế. Chỉ khi tâm đã mạnh mẽ với định, niệm và trí tuệ, bạn mới có thể nhìn thấy sân ngay từ lúc bắt đầu, ngay thời điểm nó mới khởi sanh. Bạn có thể nói mình hiểu được bản chất của sân khi bạn hiểu được toàn bộ tiến trình sân từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc.

***

Chúng ta cần phải hiểu thật rõ phiền não đang tra tấn và hành hạ mình ra sao. Chúng ta vẫn chưa học  học được bài học của mình lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba…Khi phiền não đến, chúng ta chỉ chào đón nó vào nhà như một vị khách quý, mời nó ăn bánh, uống trà. Có đúng như vậy không? Cứ thử xem lại tất cả những gì chúng ta suy nghĩ để tiếp thêm nhiên liệu cho cơn sân. Chỉ khi không còn chịu nổi phiền não nữa chúng ta mới chịu nương nhờ vào những tâm thiện để giúp đỡ mình.

***

Chúng ta thích nuôi lớn thêm phiền não mỗi khi nó sanh khởi. Chúng ta không muốn nóng, nhưng lại cứ đổ thêm dầu vào lửa. Lẽ ra chúng ta phải dội nước để dập lửa đi, nhưng trong tay lại chỉ có mỗi khẩu sung phun nước tí xíu mà trẻ con hay chơi trong ngày lễ té nước.

***

Không có đủ trí tuệ, người ta lại cố gắng đè nén phiền não bằng định (samādhi).

***

Có hai cách để phiền não đi mất:

1) Bạn chánh niệm, hay biết phiền não và nó đi mất.
2) Khi có một hiểu biết mới về phiền não đó sanh khởi trong tâm.

Khi bạn hay biết phiền não như một đề mục, nó sẽ làm tiêu tan sức mạnh của phiền não. Một cách khác là, khi bạn hiểu về phiền não đó, nó sẽ biến mất, giống như khi ánh sáng bật lên sẽ xua tan bóng tối.

***

Có những loại tư kiến ngủ ngầm, nằm sâu và ghim chặt trong tâm chúng ta mà chỉ lộ ra trên bề mặt ý thức khi bạn tiếp xúc với nhiều kinh nghiệm khác nhau. Khi đối diện với những kinh nghiệm đó, tâm bắt đầu nói chuyện, bình phẩm do bị thúc đẩy bởi các loại tư kiến đằng sau ấy. Chỉ có những hiểu biết sâu sắc mới tiếp cận được tới những tư kiến chấp thủ lâu đời ấy. Nếu những tư kiến này đã bị chấp thủ rất mạnh, rất sâu từ trước, tầm mức hiểu biết và trí tuệ hiện tại có thể hiểu được tình huống ấy, nhưng không đủ để thực sự buông bỏ được tư kiến.

Khi một điều gì đó diễn ra, cái nào mạnh hơn: phiền não hay trí tuệ? Phiền não đến một cách vô thức thường rất mạnh và khó nhìn thấy, vì đã ăn sâu vào trong tâm thức lâu nay. Một thứ có sức lôi kéo như thế và đã ở cùng chúng ta lâu đời như thế thì sức mạnh của nó phải lớn đến thế nào cơ chứ.

Trong một khóa thiền ở Singapore, tôi hỏi một câu thế này: “Bây giờ đang đàm luận Pháp, bạn có bao nhiêu tâm tham trong mình?”. Các thiền sinh kiểm tra lại tâm mình và thấy rằng vào lúc đó họ chẳng ham muốn một cái gì hết cả. Tôi nói rằng, vẫn có một cái gì trong đó và nó mạnh đến nỗi họ chẳng thể nhìn nổi ra nó.

Khi ấy ý tôi muốn nói đến loại tham nào? Đó là cái tham mọi việc trôi qua êm đẹp trong khóa thiền ấy và ở tất cả mọi nơi. Có thể nhìn ra được loại tham đó không? Họ rất ngạc nhiên khi nghe điều đó! Nếu dừng buổi đàm luận Pháp lại ngang chỗ ấy, chắc hẳn sẽ có xung đột xảy ra.

Sức lôi kéo đã đi cùng chúng ta cả cuộc đời ấy cực kỳ mãnh liệt, nó nằm sâu trong vô thức chứ không còn ở trên bề mặt ý thức nữa. Nó được gọi là anusaya, ngủ ngầm, loại phiền não đó chỉ xuất hiện trong những hoàn cảnh đa dạng và chỉ có tuệ giác vipassanā (vipassanā ñāna) mới có thể tiếp cận được tầng sâu ấy. Và chỉ có đạo tuệ (magga-ñāna) đầy uy lực mới có thể xử lý được nó.

***

Khi tôi nói “thu thập” dữ liệu nghĩa là gì? Nghĩa là bạn quan sát những gì đang diễn ra mỗi khi nó diễn ra. Sân có rất nhiều cách để thể hiện. Nếu bạn có chánh niệm mỗi khi nó có mặt, và bạn chờ đợi thật kiên nhẫn và quan sát là bạn đang thu thập dữ liệu. Một phiền não như sân đôi lúc có thể rất mạnh, nhưng lúc khác có thể yếu ớt, mờ nhạt. Tại sao vậy? Bạn sẽ chưa thể biết được câu trả lời cho đến khi dữ liệu đã hoàn chỉnh.

***

Bạn có nghĩ cái gì đó là “tốt” hay “xấu” không? Hay là bạn hiểu thật sự cái đó là tốt hoặc xấu? Hiểu biết thực sự sẽ loại bỏ những gì bạn đã từng cho là tốt hay xấu trước kia, và chỉ nhìn nó như nó đang là. Hiểu biết cũng loại trừ những ý niệm sai lầm về mọi thứ.

***

Khi mọi người mạnh khỏe, họ có rất nhiều tâm si, Chỉ khi họ đau ốm, họ mới bắt đầu có sự chú ý.

***

 Đau đớn, nhức mỏi (đề mục) có mất đi hay không không quan trọng. Bạn phải học hiểu về các tiến trình thân và tâm đang sanh diệt trong cái đau nhức ấy.

***

Thay vì cứ cố phải ngăn chặn sự hôn trầm, buồn ngủ, bạn phải học hiểu về bản chất của tâm hôn trầm. Đó là hai động cơ hoàn toàn khác nhau. Bạn sẽ thấy ra rằng, nếu chống đối lại hôn trầm, dần dần nó sẽ mạnh hơn và bạn sẽ bị ngủ gật. Tuy nhiên, nếu bạn hứng thú với những gì đang diễn ra, thì tâm sẽ tỉnh táo trở lại.

Hôn trầm xảy đến có thể do một số nguyên nhân sau:

1) Có thể do bạn ăn quá nhiều và buồn ngủ;
2) Bạn không có hứng thú với công việc hành thiền và thấy chán;
3) Do thói quen cứ nhắm mắt là buồn ngủ.

Hãy có hứng thú đối với bất cứ cái gì đang diễn ra.

***

Các thiền sinh thường hay nói với tôi là cái này “tốt”, cái kia “xấu”.  Hoặc là họ đến hỏi tôi rằng cái này cái kia xảy ra với họ như vậy là tốt hay xấu. Xin đừng gán cho một kinh nghiệm nào đó là “tốt” hay “xấu”. Nó chỉ tốt khi bạn hiểu hơn về bản chất của sự việc đang diễn ra, nhân và quả của nó, nó là thiện hay bất thiện và giá trị của kinh nghiệm đó.

***

Hãy suy nghĩ đến những điều này: Có đề mục nào đáng để phải tham hay sân vì nó hay không? Bạn có thực sự thấy ra được là tham, sân, si (và tất cả họ hàng thân thích của nó) đều là những trạng thái tâm bất thiện hay không? Bạn có thực sự hiểu được rằng niệm (sati), định (samādhi), tuệ (paññā), từ (mettā), bi (karunā), hỷ (muditā), xả (upekkhā) là những trạng thái tâm thiện hay không? Nếu bạn muốn hiểu điều đó, hãy học hiểu về chúng bằng chánh niệm+trí tuệ.

***

Thiện (kusala) có năng lực bẻ gẫy bất thiện (akusala) trong tâm và ngược lại. Chính vì vậy bạn cần phải làm mọi điều thiện, trong đó có cả nói những lời thiện lành và làm mọi việc với động cơ thiện. Nhưng hành động cao nhất, có ý nghĩa nhất là làm mọi việc bằng trí tuệ. Khi có chánh niệm + trí tuệ trong mỗi công việc mình làm, tâm sẽ hiểu cách làm việc đó sao cho khéo léo, hiệu quả để cả hai bên (mình và người) đều được lợi ích. Chỉ nhìn thấy một bên (chẳng hạn để cho mình được cái này cái kia mà người khác thì không, hay chỉ để cho mình thành công thôi), thì đó là việc của những phiền não mạnh. Trí tuệ thì ngược lại, thấy được cũng những điều mà tâm si thấy đó, nhưng dưới ánh sáng hoàn toàn khác biệt.

***

Nếu chúng ta chỉ chú ý tới đề mục, đó mới chỉ là một nửa bức tranh và sự hiểu biết vẫn chưa đầy đủ. Phạm vi chánh niệm của chúng ta cần phải mở rộng, bao gồm cả đề mục, tâm quan sát, cảm xúc và nhiều hơn nữa. Phạm vi chánh niệm mở rộng này đến từ việc chờ đợi và quan sát với sự kiên nhẫn và trí thông minh, chứ không phải từ việc tập trung vào đề mục với hy vọng nhìn thấy một điều gì đó. Chính vì vậy phạm vi chánh niệm rộng mở này rất quan trọng.

Trí tuệ đứng sang bên cạnh như một người từ bên ngoài quan sát toàn bộ tiến trình đang tự nó diễn ra. Còn tập trung chú tâm vào đề mục thường có cảm giác dính mắc vào đề mục đó. Do đó, phạm vi chánh niệm sẽ rất hẹp. Chính vì vậy tôi thường nhắc các bạn không được dùng sức cưỡng ép hay tập trung.


Chúng ta chú ý tới tâm quan sát nhiều hơn tới đề mục. Tâm có phản ứng bằng phiền não đối với đề mục này hay không? Chúng ta cũng đặc biệt chú ý tới tâm thiền khi đề mục quan sát của chúng ta là các phiền não. Trong tâm thiền có phiền não hay không? Trên thế giới này, chỉ có mỗi tâm và đề mục mà thôi.

***

Khi quá tập trung chú tâm, bạn sẽ không còn thấy tâm được nữa. Tập trung luôn sử dụng các khái niệm như khoảng cách và nơi chốn. Bạn chú tâm vào cái gì và chú tâm vào chỗ nào để thấy được tâm? Khi tập trung chú tâm, bạn chỉ còn thấy được mỗi phía đề mục. Bạn chỉ có thể quan sát được sự hoạt động của tâm nếu như bạn biết chờ đợi và quan sát.

***

Khi mở mắt, bạn có nhận ra được là có cái nhìn đang diễn ra hay không? Cố ý nhìn và thấy (một cách tự nhiên) khác nhau như thế nào? Cố ý nhìn đòi hỏi phải hướng sự chú ý vào đề mục bên ngoài, nhưng chỉ thấy thì không cần phải cố gắng như thế.

Nhìn chỉ là nhìn. Nhìn có là thiện hay bất thiện hay không? Chẳng là gì cả! Tuy nhiên, các trạng thái tâm bất thiện có rất nhiều cơ hội để sanh khởi khi trong cái nhìn đó không có chánh niệm + trí tuệ. Thiền là để phát triển thái độ đúng và sự chú ý đúng đắn, phát triển niệm, định và trí tuệ về những gì đang diễn ra.

***

Bạn cần thành thục việc hành thiền mở mắt nếu muốn mang sự thực hành này ra ngoài cuộc sống. Nghĩa là thành thục kỹ năng thực hành với bất cứ đề mục nào và học hỏi về bất cứ đề mục nào bạn gặp.

Tâm hoạt động tương tự như nhau trong khi nhìn và khi nghe. Nó chỉ làm việc qua hai cửa giác quan khác nhau mà thôi. Bạn có hay biết là mình đang nhìn không? Tâm nhìn đó đang nhìn. Tâm nghe đó đang nghe. Khi nhìn hoặc nghe, tâm phải chú ý tới một đề mục. Nếu bạn biết mình đang nhìn, thì ở đó đã có sẵn chánh niệm rồi và bạn có thể nhận ra được tâm.

Có vô số trường hợp bạn phải nhìn mỗi ngày. Bạn nhận biết ra mình nhìn bao nhiêu lần trong ngày? Rất nhiều phiền não sanh khởi có liên quan đến các đề mục của con mắt mỗi khi bạn nhìn không có chánh niệm + trí tuệ. Ngọn lửa phiền não đang thiêu đốt. Bạn cần học cách thực hành trong khi nhìn. Bạn cần học cách nhìn với chánh niệm.

***

Trong kinh Tứ Niệm Xứ (satipatthāna sutta), Đức Phật dạy cách nói năng với chánh niệm. Hãy nghĩ đến bao nhiêu rắc rối xảy ra mỗi khi chúng ta hiểu nhầm lẫn nhau trong khi giao tiếp, bạn sẽ thấy sự quan trọng của việc nói năng một cách khéo léo và tốt đẹp. Đối với những thiền sinh mới thì cần phải hạn chế nói, những thiền sinh đã hành thiền lâu cần phải học cách nói với chánh niệm + trí tuệ. Chúng ta phát triển kỹ năng này cho những nơi chính để thực hành: trong gia đình, nơi làm việc, văn phòng, nơi kinh doanh buôn bán…Không ai có thể hành thiền ở trường thiền suốt cả cuộc đời được, mà bằng cách học cách thực hành ở ngoài đời, để công việc hành thiền xuất thế gian có thể đi cùng với những công việc của thế gian.

Khi nói chuyện, bắt đầu chánh niệm với bất cứ đề mục nào cũng được. Khi thực hành đã lâu, bạn sẽ chánh niệm được về những gì đang diễn ra trong tâm cũng như trong thân của mình. Tâm chỉ đang làm công việc của nó là nói chuyện và bạn chỉ đơn giản để điều đó diễn ra một cách tự nhiên. Chánh niệm có thể thấy được tâm đang làm việc như thế nào. Nó đang suy nghĩ gì? Tâm đang cảm nhận cái gì? Tâm đang chú ý tới cái gì? Điều cốt yếu là bạn phải hay biết được mình đang nói với cái tâm như thế nào. Những lời nói thúc đẩy bởi phiền não chắc chắn sẽ mang lại những khó khăn và đau khổ, còn khi có trí tuệ hiện diện, mọi việc sẽ diễn ra êm đẹp.

Vậy bạn có nên thực hành chánh niêm + trí tuệ trong khi nói chuyện hay không? Ai đang nói đấy? Có người nào đang nói đó không? Bạn có thể nhận ra tiến trình nói cũng chỉ là một tiến trình thân tâm khác mà thôi.

***

Bạn đi trở về phòng mình từ thiền đường. Bạn có ý định mở cửa khi nào? Một số người đã chuẩn bị sẵn chìa khóa phòng từ khi còn đang đi trên đường về, có người thì khi bước lên cầu thang đã cầm chìa khóa. Bạn có biết là mình đang đi lên cầu thang hay không? Khi mở cửa, bạn biết được bao nhiêu về tiến trình mở cửa ấy? Bạn đang nghe cái gì? Bạn có thể biết được mình đang nghe gì khi sự chú ý chỉ đặt ở việc mở cửa thôi không? Chính vì vậy tôi nói bạn cần phải có chánh niệm rộng mở.

***

Một số người dùng rất nhiều sức lực để ngồi thiền, để khi đứng dậy thì bỏ hết (kể cả chánh niệm). Đà chánh niệm chết ngay tại đó, ngay lúc đó.

***

Chánh niệm không ngừng nghỉ nghĩa là gì? Đó là phần quan trọng nhất của pháp hành. Bạn còn chánh niệm được bao nhiêu khi đứng dậy khỏi thời thiền ngồi? Ý định đứng dậy sanh khởi lúc nào? Bạn còn biết thêm được gì nữa? Bạn có hay biết được thân mình đang quay không? Bạn cử động, duỗi chân, đứng dậy, rồi gì nữa? Bạn có nhìn những người xung quanh trong thiền đường không?

Hãy thực hành để hiểu được giá trị của cái tâm có chánh niệm và trí tuệ. Trạng thái tâm có chánh niệm và trí tuệ ấy như thế nào? Trạng thái tâm tỉnh giác như thế nào? Bạn có phân biệt được giữa các trạng thái tâm hay không?

***

Một thiền sinh trình pháp: “Tôi đã quan sát cảm giác đau này cả giờ đồng hồ rồi, cái đau cứ tăng lên nhưng thiền của tôi chẳng tiến bộ thêm tý nào. Tôi cứ đi theo một cái vòng luẩn quẩn”.

Thiền sinh đó chú tâm trong cả một tiếng đồng hồ. Nếu cô ta chánh niệm được là mình có sự chú ý trong vòng một tiếng đó, chắc chắn cô ta phải xây dựng được niệm và định trong khoảng thời gian ấy chứ? Trong trường hợp này, tâm tham đang tìm kiếm một kết quả nào đó, như để cho cảm giác đau biến mất chẳng hạn. Khi mọi thứ không như cô ta nghĩ hoặc mong muốn, cô ta sẽ nghĩ rằng thiền của mình không tiến bộ được chút nào. Với cách suy nghĩ như vậy liệu đức tin có thể tăng trưởng được không? Hay là chỉ có sự thất vọng? Cách suy nghĩ sai lầm, thái độ sai lầm, định hướng tâm sai lầm (ayoniso manasikāra – phi như lý tác ý) này bị thúc đẩy bởi phiền não nằm trong những quan kiến đằng sau.

Còn nếu thiền sinh này coi một tiếng đồng hồ đó như là thời gian niệm, định và tuệ đang phát triển, thì đó là thái độ đúng, cách nhìn đúng và định hướng tâm đúng (như lý tác ý). Đó là cách để đức tin vào pháp hành và sự tự tin được tăng trưởng.

Hãy suy nghĩ đến câu nói của thiền sinh đó. Làm sao chúng ta đo lường được sự tiến bộ trong thiền? Sự phát triển của niệm, định, trí tuệ, sự tăng trưởng của các trạng thái tâm thiện và giảm thiểu các trạng thái tâm bất thiện là sự tiến bộ trong Pháp.

***

Một thiền sinh nói những thời ngồi thiền của anh ta đang tiến bộ từng ngày, vì vậy anh ta muốn ngồi nhiều hơn và lâu hơn.

Tại sao thiền sinh này nghĩ như vậy? Thực ra, thay vì muốn ngồi nhiều hơn, anh ta phải nên muốn thực hành liên tục hơn và kiên trì hơn trong bất cứ tư thế nào. Nhưng thiền sinh này lại gắn cái thiền “tốt” ấy cho tư thế ngồi, và vì vậy quan tâm nhiều hơn đến việc ngồi thiền. Khi chú ý nhiều đến đề mục và những gì diễn ra thì sẽ khó nhận ra được tâm đang làm việc như thế nào.

Những suy nghĩ và cách hiểu sai lầm về thiền là do không thấy được sự làm việc của tâm quan sát. Chúng ta không nhận ra được rằng những cảm giác thích thú, hoan hỷ hay cái chúng ta gọi là “thời thiền tốt” chỉ là những hiệu ứng, kết quả của những nhân duyên và điều kiện của nó (điều mà chúng ta không nhận ra). Chỉ có loại trí tuệ có tầm nhìn rộng mở, như cái nhìn của con chim từ trên nhìn xuống, nhìn thấy cả tâm và đề mục đang diễn ra cùng với nhau và những tiến trình của nó thì mới có khả năng hiểu được các mối quan hệ nhân quả. Trí tuệ sẽ càng được xây dựng và tăng cường với mỗi hiểu biết mới, và làm hoàn chỉnh toàn bộ bức tranh.

***

Chỗ nào có nhân, chỗ đó sẽ có quả. Thầy tôi luôn luôn hỏi về cái nhân ấy. Ngài luôn luôn muốn biết nguyên nhân. Tôi thường đến trình pháp với ngài  rằng tôi đã thấy thấy giai đoạn đầu, giữa và cuối (của tiến trình); thấy sanh và diệt. Ngài thường hỏi: “Thế tại sao nó sanh khởi”, “Tại sao nó diệt?”, tôi không biết (cười). Tôi biết có sanh và diệt, nhưng không biết tại sao. Cái gì sanh lên? Làm sao tôi tin nó được? Ngài chỉ hỏi rất đơn giản: “Tại sao nó diễn ra?”. Không ai trả lời được. Tất cả mọi người chỉ đi tìm kiếm sanh diệt và thế là chúng ta thỏa mãn với việc nhìn thấy sanh diệt.

Phật Pháp nói ngắn gọn là nhằm hiểu biết về nhân quả. Chúng ta phải biết khi nào chánh niệm có mặt và biết khi nào chánh niệm vắng mặt. Chúng ta cần biết nguyên nhân để chánh niệm có mặt và làm thế nào để chánh niệm tăng trưởng. Tương tự như vậy, chúng ta cần biết khi nào định có mặt và biết khi nào định vắng mặt. Chúng ta cũng cần biết những nguyên nhân dẫn đến định tăng trưởng. Tôi cũng thêm một điều nữa: chúng ta cần biết tại sao mình mất định tâm.

Cũng y hệt như vậy đối với phiền não. Chúng ta phải biết khi nào phiền não có mặt, khi nào vắng mặt, khi nào nó xâm nhập hay tăng cường độ và khi nào nó giảm bớt. Tại sao nó giảm bớt?

***

Bạn đã quan sát thân và tâm này được một thời gian tương đối lâu rồi. Bây giờ bạn hiểu nhiều hơn đến đâu rồi? Hiểu biết đó sâu sắc đến đâu?

Một thiền sinh bạn cũng quan sát đề mục. Tôi cũng quan sát đề mục. Chúng tôi có cùng trình độ hiểu biết về các kinh nghiệm đó không? Một người mới hành thiền liệu có cùng trình độ hiểu biết bằng một người đã hành thiền lâu rồi (theo đúng cách) không?

Pháp hành bế tắc nếu mức hiểu biết hiện tại vẫn chỉ ngang bằng với mức hiểu trước kia. Hiểu biết và trí tuệ không nên đứng tại một chỗ và phải luôn luôn tiến lên. Hiểu biết tăng lên bao nhiêu, kỹ năng thực hành cũng tăng lên bấy nhiêu. Điều đó nghĩa là thiền tập của bạn đang tiến triển.

***

Khi bạn nhìn thấy suy nghĩ của mình như: “Ôi, thiền của tôi chẳng tiến lên được tý nào”, thì hãy kiểm tra lại thái độ trong tâm mình ngay. Những suy nghĩ này không thể nổi lên nếu bạn chú ý nhiều hơn đến những gì đang diễn ra (đề mục) mà lại không nhận diện được những tham muốn và mong đợi đang làm việc ở đằng sau. Hãy xem:

• Có phải vì bạn chưa đạt được những gì mình mong đợi sẽ đạt được?
• Có phải vì bạn không có được cái mình muốn?
• Bạn có thấy rằng mình chỉ thu được nhiều bằng mức mình đang thực hành thôi không?

***

Rất ít người nhận ra được rằng việc thư giãn thoải mái cái tâm căng cứng và bó hẹp ra cũng là một phần của thiền.

***

Có phải bạn chỉ muốn hành thiền ở một chỗ nhất định nào đó vì nghĩ là nó tốt cho thiền? Hay bạn hành thiền vì nghĩ rằng nó là thiện, bởi vì bạn hiểu được giá trị của việc thực hành? Trước hết, xin bạn hãy làm việc để biết trân trọng những điều tốt đẹp và giá trị của pháp hành này.
***

Bạn đã biết được nhiều thế nào về những tiến trình (thân tâm) và những đề mục mà mình đã quan sát bao nhiêu năm nay? Bạn biết đề mục nhiều đến đâu? Sự hiểu biết này là rất quan trọng và cần phải có sự tò mò, sự sẵn lòng tìm hiểu, khám phá, học và hiểu. Ngày nào bạn cũng nếm món ăn. Vậy bạn đã hiểu được về việc nếm đó đến đâu rồi?

Hãy suy nghĩ đến những điều đó khi bạn thực hành mỗi ngày. Nhìn, nghe, nếm, ngửi, xúc chạm và suy nghĩ tất cả đều là các kinh nghiệm và tâm. Bạn biết khi có buồn và khi vui. Bạn đã hiểu về các trạng thái tâm này nhiều hơn trước kia như thế nào? So sánh, mức độ phiền não khi tâm tiếp xúc với đề mục bây giờ đã khác xưa như thế nào?

***

Khi bạn tư duy về Pháp, hãy tư duy về những thứ có liên quan đến kinh nghiệm của bạn. Bạn cần có chánh niệm để biết được những gì đang diễn ra và bạn cũng cần phải ở trong hiện tại nhiều hơn nữa thay vì cứ để suy nghĩ cuốn mình đi.

***

Bạn không thể bắt Pháp phải đến với mình. Bạn cần phải kiên nhẫn, nhưng không bao giờ quên thực hành – đó chính là hộ độ cho Phật Pháp.


Xem tiếp

0 nhận xét:

Đăng nhận xét