PHẬT GIÁO, NHÌN TOÀN DIỆN - Lời mở đầu | Thiền Giữa Đời Thường

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014

PHẬT GIÁO, NHÌN TOÀN DIỆN - Lời mở đầu


LỜI MỞ ÐẦU

Quyển sách này gồm một loạt những bài viết về nhiều khía cạnh khác nhau của Phật Giáo. Vài bài đã được viết cho loại sách Wheel và loại Bodhi Leaves do nhà xuất bản Buddhist Publication Society (BPS) tại Kandy, Sri Lanka ấn hành. Tuy nhiên tất cả những văn phẩm đăng tải ấy đã được duyệt lại, tu chỉnh rộng rãi và khai triển với nhiều đoạn mới của Giáo Pháp và thêm phần giải thích. Những tài liệu liên quan đến Phật Giáo trong thế giới hiện đại, phản ảnh sự chú tâm của họ đến Phật Giáo, đã được cập nhật hóa.

Người đọc sẽ thấy trong quyển sách này một cái nhìn toàn diện hàm xúc những lời dạy chánh yếu và nòng cốt của Ðức Phật Sakyamuni Gotama (Thích Ca Mâu Ni Cồ Ðàm). Do đó, tôi đề tựa nó là: "The Spectrum of Buddhism" -- Phật Giáo, Nhìn Toàn Diện -- tức một cái nhìn toàn diện vào giáo lý của đạo Phật. Người đọc cũng sẽ nhận thức vì sao giáo huấn của Ðức Phật đã vững chắc duy trì giá trị như một hướng dẫn thực dụng cho đời sống chí đến ngày nay.

Phật Giáo không phải dành riêng cho một chủng tộc, một quốc gia hay một vùng nào, mà phổ cập cùng khắp mọi nơi. Thế giới Phương Tây sớm nhìn nhận Phật Giáo là một lối sống vững vàng mạnh mẽ và thuần lý, bởi vì Phật Giáo là giáo lý thực dụng và hợp với lý trí nhất, không có bất luận hình thức cuồng tín nào. Bức thông điệp của Ðức Phật là để cho mọi thời đại, và ngày nay chúng ta nhận thức rằng Phật Giáo cung ứng thích nghi giải đáp cho những thắc mắc mà tâm trí của con người hiện đại đang khao khát mong tìm.

Tuy nhiên, Phật Giáo không phải để tán dương suông, cũng không thể ôm giữ, tồn trử Phật Giáo như một loại tài sản tương tợ như bảo vật quốc gia, mà là một giáo lý phải được sống, phải được chứng nghiệm. Ðức Phật đã rõ ràng chỉ vào Giáo Pháp (Dhamma), Giáo Huấn của Ngài, và xem đó là phương tiện để đưa vượt qua đại dương trầm luân đau khổ, samsàra, những kiếp sinh tồn triền miên tiếp diễn, vững chắc và châu toàn sang đến bờ Không Phiền Muộn, Không Chết. Như vậy, Giáo Pháp thật sự cũng như chiếc bè mà ta bỏ lại sau lưng, khi đã đưa ta vượt đến bờ bên kia.

Ðức Phật gọi giáo huấn của Ngài là Dhamma-Vinaya, Giáo Pháp và Giới Luật. Cũng được gọi là Buddha-sàsana, giáo lý do Ðức Phật ban truyền. Giới luật trong Phật Giáo đề cập đến đức hạnh, khía cạnh luân lý của giáo huấn. Giới luật thuộc nhóm giới (sìla), trong khi Giáo Pháp thuộc nhóm định (samàdhi) và nhóm tuệ hay tuệ minh sát (pannà hay vipassanà). Họp chung lại, ba nhóm này (giới, định, tuệ) là pháp hành trong Phật Giáo. Ðó là Trung Ðạo, con đường mà Ðức Phật chỉ vạch, tránh xa hai cực đoan, lợi dưỡng trong nhục dục ngũ trần và khắc khe khổ hạnh, và dẫn đến châu toàn tối thượng, đến giải thoát toàn vẹn (vimutti), đến Niết Bàn, mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo. Không cần phải học toàn bộ Kinh Ðiển Phật Giáo (Ti-pitaka, Tam tạng kinh) mới có thể chứng đắc Niết Bàn. Thực hành là trọng yếu, chớ không phải uyên bác học rộng. Hãy lắng nghe lời Phật dạy:

"Dầu người kia đọc nằm lòng nhiều kinh điển nhưng không chú tâm, không hành động đúng theo lời dạy, người như vậy giống như mục đồng đếm bò của kẻ khác nhưng không thừa hưởng quả vị của đời sống thiêng liêng." (Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 19)

Cũng không có cưỡng bách hay ép buộc trong Phật Giáo. Ðức Phật không phải là một vì vua chuyên chế độc tài, cũng không phải nhân vật ban hành luật pháp. Ngài không hứa hẹn với hàng tín đồ sẽ ban thưởng người hành thiện và trừng phạt người hành động bất thiện, bởi vì trong Phật Giáo định luật tự mình lãnh lấy trách nhiệm về hành động của mình, phổ cập áp dụng cho tất cả: mỗi người phải chịu đau khổ vì những hành động sai lầm của chính mình, và thọ hưởng những lợi ích do hành động chân chánh của mình. Nghiệp báo (kamma, sanskrit là karma), nhân sanh quả, tự nó là một định luật, không cần có người ban hành. Sinh hoạt của nghiệp có đặc tánh là tuyệt đối công bình, vì nghiệp là kế toán viên rất chính xác. Do đó mỗi người thọ nhận đúng phần của mình -- những gì mình xứng đáng thọ nhận. Những vị không nghiên cứu thông suốt những bài kinh (suttas) của Ðức Phật mà chỉ đọc những quyển sách về Phật Giáo do những tác giả không quen thuộc với lối trình bày rất rõ ràng của Ðức Phật, hấp tấp đi đến những kết luận sai lầm và gọi Phật Giáo là tôn giáo "của thế giới khác" hay tôn giáo "phủ nhận đời sống". Thí dụ như trong quyển "The Religion of India, The Sociology of Hinduism and Buddhism", trang 206-213, Max Weber mô tả sự cứu vớt linh hồn trong Phật Giáo như "một việc làm có tánh cách tuyệt đối cá nhân của một cá nhân đơn độc," và Phật Giáo là "thần bí và phi-xã hội". Quan niệm như thế là hoàn toàn vô căn cứ.

Ðức Phật không tự hảm mình trong một căn phòng. Ngài là người đi bộ nhiều nhất trong thế gian, đi từ dậm này đến dậm đường khác để ban truyền bức thông điệp hòa bình của Ngài cho tất cả. Trong khi vua chúa và hàng vương giả đến với Ngài để được dạy dỗ và hướng dẫn thì Ðức Bổn Sư đích thân đến viếng người nghèo khó và túng thiếu, người thấp hèn và người thua thiệt mất mát. Ngài di chuyển giữa hạng người bình dân nhiều hơn trong những người cao sang quyền quý.

Một lần nọ Ngài từ chối, không thuyết giảng liền cho một mục đồng nghèo đang bụng đói và ngồi chờ mãi, chí đến khi người ấy có chút gì đỡ dạ. Ðức Phật thấu hiểu con người từ bậc thấp nhất đến bậc cao nhất trong đời sống. Hay biết rõ ràng những điều kiện chánh trị, xã hội và kinh tế của xứ Ấn Ðộ thời bấy giờ, Ngài chú trọng nhiều đến thời điểm kế cận, đến cuộc sống hiện tại. Người đọc sẽ tìm thấy trong sách này chính những lời dạy của Ðức Phật, giải đáp cho những quan niệm sai lầm.

Sử gia H.G. Wells viết: "Phật Giáo đã cung ứng cho bước tiến của nền văn minh thế giới và văn hóa thật sự, nhiều hơn bất luận ảnh hưởng nào khác trong ký sự của nhân loại."

Tiến Sĩ Richard A. Gard nói: "Văn minh Phật Giáo vươn mình lên vững vàng trước khi tất cả mọi người đến nằm trong ảnh hưởng của nó, một kiểu mẫu của con người xứng đáng được kính trọng phải như vậy, một nhân vật lý tưởng đáng nêu gương lành cho hàng vua chúa cũng như hạng cùng đinh ... Sản xuất tài sản để xử dụng trong công tác xã hội thay vì lợi ích cá nhân, đo lường cá nhân bằng giá trị đạo đức và trí tuệ, không phải bằng quyền lực kinh tế, và sự lớn mạnh quốc gia bằng tình trạng thanh bình thạnh vượng của dân trong nước chớ không phải chỉ thăng bằng số chi thâu thương mãi. Ðó là vài giá trị được cụ thể hóa trong lý tưởng của người Phật tử."

Trong những công tác hoằng dương Giáo Pháp không bao giờ có những phương pháp cưỡng bách hay xử dụng đến quyền lực nào. Giáo Pháp (Dhamma), được hoằng khai một cách trầm lặng hiền hòa, không vội vàng hấp tấp, trang nghiêm đứng đắn, và bằng những phương tiện đáng được tôn kính. Bằng cách ấy Phật Giáo thâm nhập vào những lãnh thổ xa lạ mà không làm xáo trộn những tín ngưỡng sẵn có tại đó.

Aldous Huxley ghi nhận: "Duy nhất trong tất cả những tôn giáo lớn thế giới, Phật giáo tiến hành trên con đường của mình mà không gây sát hại hành hà, cấm đoán kiểm duyệt, hoặc tìm tòi soi bói."

Giờ đây tôi lấy làm hoan hỷ thực hành nhiệm vụ bày tỏ lòng tri ân của tôi đối với những vị đã giúp hoàn thành quyển sách này.

Ông và Bà Jivinda de Silva, Phật tử Sinhala Tích Lan, hiện cư ngụ tại New York City, đã làm phấn khởi và khích lệ tôi tuyển chọn những bài viết, gom lại thành tập. Tôi không mấy hăng hái làm việc này, vì đa đoan bận rộn với nhiều phận sự khác, những công tác tôn giáo và xã hội. Nhưng rồi một nữ tu sĩ người Mỹ Cô Ayyà Nyànasirì, (tên ngoài đời là Helen Wilder) một ủng hộ viên nhiệt thành và nhân vật đọc lại bài vỡ của hội Buddhist Publication Society tại Kandy, đã rất sẵn lòng góp nhặt vài bài luận của tôi về Phật Giáo và sắp xếp lại thành hình để tôi chỉ nhuận chính bản thảo. Tôi hết lòng cảm tạ sự giúp đỡ vô cùng quảng đại của sư cô trong việc chuẩn bị, đọc lại suốt quyển sách, sắp xếp bảng mục lục và phần ghi chú. Sư Cô đã chứng tỏ tinh thần hy sinh bất vụ lợi và tâm đạo nhiệt thành, hăng say phục vụ không thối chuyển trong bất luận giai đoạn nào.

Tôi cũng muốn bày tỏ lòng tri ân đặc biệt của tôi đối với Ðại Ðức Tỳ Khưu Boddhi, Chủ Tịch và Chủ Bút hội Buddhist Publication Society, đã viết lời mở đầu cho quyển sách, và Ðại Ðức Mahàthera Kheminda của chùa Vajirarama đã sẵn lòng giúp tôi tìm rất nhiều vị trí tham chiếu của quyển sách, đến Ðại Ðức Mahàthera Siridhamma của chùa Vajirarama và đến Ông Albert Witanachi, Cựu Tổng Thơ Ký hội Buddhist Publication Society, đã đọc lại bản thảo và gợi nhiều đề nghị quý báu. Với tất cả những vị trên tôi hết lòng cảm tạ sâu xa. Tôi rất cảm tạ Cô Enid Alahakoon của hội BPS và Ông R.M.T.B. Ratnayake đã giúp đánh máy cho tôi vài bài luận. Và tôi cũng xin đặc biệt cảm tạ Ông M.W. Karunaratne và tất cả nhân viên trong nhà in của ông đã hoàn thành một công trình rất đẹp đẽ. Tôi cũng muốn ghi nhận nơi đây lòng biết ơn của tôi đối với những tác giả và các nhà phát hành những văn phẩm mà tôi đã trích đăng.

Cuối cùng, nhưng không kém quan trọng, tôi xin cảm tạ quý liệt vị đã hảo tâm đóng góp vào phí tổn quyển sách, tôi xin vô cùng cảm tạ.

"Icchitam patthitam tunham -- 
Khippameva samijjhatu 
Sabbe pùrentu samkappà -- 
Cando pannaraso yathà"

Ngưỡng nguyện tất cả những gì 
Quý vị mong muốn và ước ao sớm được thành tựu; 
Ngưỡng nguyện tất cả đều trổ quả 
Như trăng trong ngày Rằm.

Vajirarama
Colombo 5 
Sri Lanka (Ceylon)
F.R. Senanayaka 
Forest Hermitage
Kandy, Sri Lanka

PIYADASS

0 nhận xét:

Đăng nhận xét