Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016
Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
Các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp.
Nếu hàng thanh-văn đệ-tử nào hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp([1]) thì làm nhân-duyên hỗ-trợ cho hàng thanh-văn đệ-tử ấy biết giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn.
Đức-Phật dạy và nghiệp và quả của nghiệp:
“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmi.”([2])
Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào: “thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp”, ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.
Nên tìm hiểu nghiệp và quả của nghiệp, bởi vì tất cả mọi chúng-sinh dù lớn dù nhỏ cũng đều tuỳ thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mình.
* Nghiệp (kamma), Đức-Phật dạy rằng:
Cetanā’haṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā.([3])
- Này chư Tỳ-khưu! Sau khi đã có tác-ý rồi, mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.
Vì vậy, Như-lai dạy rằng: Tác-ý gọi là nghiệp.
Tác-ý (cetanā) đó là tác-ý tâm-sở (cetanā-cetasika) là 1 trong 52 tâm-sở, đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
* Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với các tâm nào gọi là nghiệp và đồng sinh với các tâm nào không gọi là nghiệp?
* Tác-Ý Gọi Là Nghiệp
Nếu khi tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm), và đồng sinh với 21 hoặc 37 thiện-tâm thì tác-ý tâm-sở ấy gọi là nghiệp như sau:
- Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) có 12 bất-thiện-nghiệp (12 ác-nghiệp) bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.
- Tác-ý tâm-sở khi đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm có 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.
- Tác-ý tâm-sở khi đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm có 5 sắc-giới thiện-nghiệp bằng ý.
- Tác-ý tâm-sở khi đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm có 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp bằng ý.
- Tác-ý tâm-sở khi đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm có 4 hoặc 20 siêu-tam-giới thiện-nghiệp bằng ý.
Cho nên, thiện-nghiệp có 4 loại:
1- Dục-giới đại-thiện-nghiệp có 8 loại.
2- Sắc-giới thiện-nghiệp có 5 loại.
3- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp có 4 loại.
4-Siêu-tam-giới thiện-nghiệp có 4 hoặc 20 loại.
* Tác-Ý Không Gọi Là Nghiệp
- Nếu khi tác-ý tâm-sở đồng sinh với 36 hoặc
52([4])quả-tâm và 20 duy-tác-tâm([5]) thì tác-ý tâm-sở ấy không gọi là nghiệp.
* Tính Chất Của Nghiệp (kamma)
Mỗi người đều có quyền hoàn toàn chủ động lựa chọn tạo ác-nghiệp nào hoặc thiện-nghiệp nào tuỳ theo khả năng của mình.
* Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp nào, hoặc thiện-nghiệp nào rồi thì ác-nghiệp ấy, hoặc thiện-nghiệp ấy chỉ thuộc về của riêng người ấy mà thôi, không có chung với một ai cả, không liên quan đến người nào khác.
Cũng như vậy, mỗi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng đã tạo mọi ác-nghiệp nào, mọi đại-thiện-nghiệp nào từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại này, tất cả mọi ác-nghiệp ấy, mọi đại-thiện-nghiệp ấy đều được lưu-trữ đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm sinh rồi diệt liên tục, từ kiếp này sang kiếp kia, trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài của mỗi chúng-sinh, của mỗi người, không hề bị mất mát một mảy may nào cả, dù cho thân bị thay đổi mỗi kiếp do quả của nghiệp, còn tâm vẫn sinh rồi diệt liên tục có phận-sự lưu-trữ tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp của mỗi chúng-sinh, của mỗi người.
Đức-Phật dạy rằng:
“Kammassako’mhi kammadāyādo, …”
Ta có ác-nghiệp, thiện-nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả khổ của ác-nghiệp, quả an-lạc của thiện-nghiệp của ta.
* Tính Chất Quả Của Nghiệp (kammaphala)
Dĩ nhiên, chính ta là người thừa hưởng quả của ác-nghiệp, quả của đại-thiện-nghiệp của ta một cách hoàn toàn bị động. Trong cuộc sống, nếu ác-nghiệp nào của ta có cơ-hội cho quả thì ta phải chịu quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, ta mới thoát ra khỏi được. Nếu đại-thiện-nghiệp nào của ta có cơ-hội cho quả thì ta được hưởng quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, ta mới không còn hưởng quả ấy được nữa.
Tuy nhiên, quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp của ta, và quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp của ta không chỉ riêng cho ta, mà quả của nghiệp ấy còn ảnh hưởng đến những người khác, những chúng sinh khác gần gũi, thân cận với ta nữa.
Ác-Nghiệp Và Quả Của Ác-Nghiệp
Nếu người nào có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi, không biết tự trọng, nên phạm điều-giới nào trong ngũ-giới, tạo ác-nghiệp điều-giới ấy chỉ thuộc về riêng của người ấy mà thôi, không có chung với một ai, không liên quan đến người khác.
Ác-nghiệp có 12 loại nghiệp trong 12 ác-tâm (8 tham-tâm + 2 sân-tâm + 2 si-tâm), nếu ác-nghiệp nào có cơ-hội cho quả thì cho quả trong 2 thời kỳ:
- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla).
* Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau, chỉ có 11 bất-thiện-nghiệp trong 11 bất-thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm) cho quả chỉ có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).
- Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong tham-tâm có nhiều năng lực làm phận-sự tái-sinh kiếp sau thì hoá-sinh trong loài ngạ-quỷ hoặc loài a-su-ra, bởi vì 2 loại chúng-sinh này thường có tham-tâm thèm muốn vì đói khát.
- Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong sân-tâm có nhiều năng lực làm phận-sự tái-sinh kiếp sau thì hoá-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục.
- Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong si-tâm có nhiều năng lực làm phận-sự tái-sinh kiếp sau thì tái-sinh trong loài súc-sinh.
* Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla) kiếp hiện-tại có đủ 12 ác-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) nếu có cơ-hội cho quả thì có 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của ác-nghiệp trong bất-thiện-tâm (ác-tâm) như sau
7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm:
1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, thấy đối-tượng sắc xấu không đáng hài lòng.
2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng thanh dở không đáng hài lòng.
3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp ngửi đối-tượng hương mùi hôi không đáng hài lòng.
4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị dở không đáng hài lòng.
5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ khổ là quả của bất-thiện-nghiệp, xúc giác đối-tượng xúc thô không đáng hài lòng.
6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu không đáng hài lòng.
7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của bất-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu không đáng hài lòng.
Đó là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả xấu của ác-nghiệp (bất-thiện-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm, tiếp xúc biết các đối-tượng xấu làm cho chúng-sinh khổ tâm.
Thiện-Nghiệp Và Quả Của Thiện-Nghiệp
Thiện-nghiệp có 4 loại:
1- Dục-giới đại-thiện-nghiệp.
2- Sắc-giới thiện-nghiệp.
3- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp.
4- Siêu-tam-giới thiện-nghiệp.
1- Dục-Giới Đại-Thiện-Nghiệp
Dục-giới đại-thiện-nghiệp có 8 loại nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm.
Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, tạo đại-thiện-nghiệp giữ-giới.
Nếu đại-thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả thì cho quả trong 2 thời kỳ:
- Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
- Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla).
1-Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-
kāla), nếu 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm có cơ-hội cho quả thì có 9 quả-tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, 9 quả-tâm này gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới như sau:
- 4 dục-giới đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận-sự tái-sinh kiếp sau chỉ có 1 sát-na-tâm đầu tiên đầu thai làm người thuộc về hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) có đầy đủ 3 thiện-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) từ khi đầu thai làm người trong lòng mẹ.
Khi thai nhi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người tam-nhân ấy vốn có trí-tuệ.
- Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông.
- Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành 4 bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
- 4 dục-giới đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận-sự tái-sinh kiếp sau chỉ có 1 sát-na-tâm đầu tiên đầu thai làm người thuộc về hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala) chỉ có 2 thiện-nhân (vô-tham và vô-sân, không có vô-si) từ khi đầu thai làm người trong lòng mẹ.
Khi thai nhi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người nhị-nhân ấy vốn không có trí-tuệ.
- Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì không có khả năng chứng đắc các bậc thiền nào.
- Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì không có khả năng chứng ngộ chân-
lý tứ Thánh-đế.
- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm bậc thấp làm phận-sự tái-sinh kiếp sau chỉ có 1 sát-na-tâm đầu tiên đầu thai làm người thuộc về hạng người vô-nhân (ahetukapuggala) không có thiện-nhân nào trong 3 thiện-nhân từ khi đầu thai làm người đui mù, câm điếc, tật nguyền, … trong lòng mẹ.
Khi thai nhi sinh ra đời đui mù, câm điếc, tật nguyền, lúc trưởng thành, người vô-nhân ấy chỉ biết tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.
Tuy nhiên, nếu thai nhi bị đui mù, câm điếc, tật nguyền, … trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, do quả của ác-nghiệp nào khác thì không thể gọi là người vô-nhân, bởi
vì có số đứa bé có sự hiểu biết đặc biệt.
2- Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla) kiếp hiện-tại con người, 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả có 16 quả-tâm đó là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc với 5 đối-tượng tốt đáng hài lòng trong cuộc sống của con người ấy.
8 dục-giới đại-quả-tâm
8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả có 8 dục-giới đại-quả-tâm tương xứng với 8 dục-giới đại-thiện-tâm về thọ, trí-tuệ, và tác-động từng mỗi tâm theo thứ tự như sau:
1- Dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
2- Dục-giới đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
3- Dục-giới đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
4- Dục-giới đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
5- Dục-giới đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
6- Dục-giới đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
7- Dục-giới đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
8- Dục-giới đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
8 thiện-quả vô-nhân-tâm:
1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, thấy đối-tượng sắc đẹp, đáng hài lòng.
2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng thanh hay đáng hài lòng.
3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm đáng hài lòng.
4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon đáng hài lòng.
5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc là quả của đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc tốt đáng hài lòng.
6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt đáng hài lòng.
7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt đáng hài lòng.
8- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ là quả của đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt đáng hài lòng.
Đó là 8 thiện-quả vô-nhân-tâm là quả-tâm của đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng tốt đáng hài lòng, đối với người.
Hoặc 9 quả tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ có 3 hạng chư-thiên là chư-thiên tam-nhân, chư-thiên nhị-nhân, và cũng có chư-thiên vô-nhân trong cõi thấp nhất.
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla) kiếp hiện-tại vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ, 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả có 16 quả-tâm đó là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc với 5 đối-tượng tốt đáng hài lòng trong cuộc sống của chư-thiên cõi trời dục-giới.
2- Sắc-Giới Thiện-Nghiệp
Sắc-giới thiện-nghiệp có 5 loại nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm.
Hành-giả là hạng người tam-nhân có giới trong sạch và trọn vẹn, nương nhờ nơi giới. thực-hành pháp-hành thiền-định, có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.
Sắc-giới thiện-nghiệp có 5 loại trong 5 sắc-giới thiện-tâm chắc chắn cho quả trong 2 thời-kỳ:
- Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla), 5 sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả có 5 sắc-giới quả-tâm tương xứng gọi là 5 sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận-sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời trên cõi sắc-giới phạm-thiên tương xứng với mỗi sắc-giới quả-tâm.
Nếu hành-giả chứng đắc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao cuối cùng thì chỉ có sắc-giới thiện-nghiệp trong thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao ấy ưu tiên cho quả là sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy làm phận-sự tái-sinh kiếp-kế-tiếp hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy mà thôi, vị phạm-thiên sống cho đến hết tuổi thọ.
Còn trường-hợp hành-giả chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm mà có tâm nhàm chán trong danh-pháp, nên trong thời-kỳ tái-sinh kiếp-kế-tiếp (paṭisandhikāla), có nhóm sắc-pháp jīvita-navakakalāpa làm phận-sự tái-sinh kiếp-kế-tiếp hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên. Vị phạm-thiên này chỉ có sắc-thân mà thôi, không có tâm. Có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.
- Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên, sắc-giới quả-tâm nào làm phận-sự tái-sinh kiếp-kế-tiếp 1 sát-na-tâm xong, rồi chính sắc-giới quả-tâm ấy tiếp tục làm bhavaṅgakicca: phận-sự hộ-kiếp, giữ gìn kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính sắc-giới quả-tâm ấy làm cutikicca: phận-sự chuyển kiếp (chết) chấm dứt kiếp vị phạm-thiên ấy tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy.
3- Vô-Sắc-Giới Thiện-Nghiệp
Vô-sắc-giới thiện-nghiệp có 4 loại nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm.
Hành-giả là hạng người tam-nhân có giới trong sạch và trọn vẹn, nương nhờ nơi giới. thực-hành pháp-hành thiền-định, có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm xong, rồi tiếp tục chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm
Vô-sắc-giới thiện-nghiệp có 4 loại nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm chắc chắn cho quả trong 2 thời kỳ:
- Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla), 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 sắc-giới thiện-tâm cho quả có 4 vô-sắc-giới quả-tâm tương xứng gọi là 4 vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời trong cõi vô-sắc-giới phạm-thiên tương xứng với mỗi vô-sắc-giới quả-tâm.
Nếu hành-giả chứng đắc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc cao cuối cùng thì chỉ có vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc cao ấy ưu tiên cho quả là vô-sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy làm phận-sự tái-sinh kiếp-kế-tiếp hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên tương xứng với vô-sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy mà thôi, vị phạm-thiên sống cho đến hết tuổi thọ.
- Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên, vô-sắc-giới quả-tâm nào làm phận-sự tái-sinh kiếp-kế-tiếp 1 sát-na-tâm xong, rồi chính vô-sắc-giới quả-tâm ấy tiếp tục làm bhavaṅgakicca: phận-sự hộ-kiếp, giữ gìn kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính vô-sắc-giới quả-tâm ấy làm cutikicca: phận-sự chuyển kiếp (chết) chấm dứt kiếp vị phạm-thiên ấy tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.
Thiện-nghiệp trong tam-giới là dục-giới đại-thiện-nghiệp, sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp chỉ cho quả tái-sinh kiếp sau luẩn quẩn trong 7 cõi dục-giới, 16 cõi trời sắc-giới, 4 cõi trời vô-sắc-giới trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới mà thôi.
4- Siêu-Tam-Giới Thiện-Nghiệp
Siêu-tam-giới thiện-nghiệp có 4 loại nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm.
1- Hành-giả phàm-nhân thuộc về hạng người tam-nhân có giới trong sạch và trọn vẹn, nương nhờ nơi giới. thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có khả năng dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niêt-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi), hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
2- Hành-giả là bậc Thánh Nhập-lưu tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
3- Hành-giả là bậc Thánh Nhất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại vi-tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
4- Hành-giả là bậc Thánh Bất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha) ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahirika), không biết ghê sợ tội lỗi (anottappa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán,
Như vậy, 4 siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm liến cho quả là 4 Thánh-quả-tâm tương xứng không có thời gian chờ đợi.
4 siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm không cho quả tái-sinh kiếp sau, mà trái lại có khả năng đặc biệt làm giảm kiếp tái-sinh kiếp sau theo mỗi bậc Thánh-nhân như sau:
- Bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới nữa, mà chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi.
Đến kiếp thứ 7, bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới 1 kiếp nữa mà thôi.
Ngay trong kiếp ấy, bậc Thánh Nhất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch
diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh Bất-lai không còn tái-sinh kiếp sau trở lại cõi dục-giới, mà chỉ còn tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên mà thôi, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, tại cõi trời sắc-giới phạm-thiên ấy, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Bậc Thánh A-ra-hán ngay trong kiếp hiện-tại chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Nghiệp và quả của nghiệp rất là công bình, không hề thiên vị một ai cả.
Tính-Chất Quả Của Nghiệp (Kamma phala)
- Nếu bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) nào có cơ-hội cho quả thì quả của ác-nghiệp là quả khổ, quả xấu mà chủ-nhân của ác-nghiệp ấy hoàn toàn bị động, không có quyền lựa chọn, phải chịu quả của ác-nghiệp ấy như người thừa kế (kammadāyādo) mà thôi.
- Nếu đại-thiện-nghiệp nào có cơ-hội cho quả thì quả của thiện-nghiệp là quả an-lạc, quả tốt mà chủ-nhân của thiện-nghiệp ấy hoàn toàn bị động, không có quyền lựa chọn, hưởng quả của thiện-nghiệp ấy như người thừa kế (kamma-dāyādo) mà thôi.
Tuy nhiên, quả khổ, quả xấu của ác-nghiệp nào hoặc quả an-lạc, quả tốt của đại-thiện-nghiệp nào không chỉ trực-tiếp riêng cho chủ-nhân của nghiệp ấy, mà còn gián-tiếp ảnh hưởng đến những người thân gần gũi, thân cận với chủ-nhân của nghiệp ấy nữa.
* Quả Khổ Của Ác-Nghiệp Ảnh Hưởng Đến Những Người Thân Cận
Ngài Trưởng-lão Losakatissa trong tích Losakajātaka([6]) được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa là vị tỳ-khưu trụ-trì tại ngôi chùa làng. Vị tỳ-khưu còn là phàm-nhân có giới, thường thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ.
Thí-chủ xây dựng ngôi chùa làng, rồi thỉnh vị tỳ-khưu về làm trụ trì, xin hộ độ các thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu trong chùa. Hằng ngày, vị tỳ-khưu trụ trì đi khất thực, rồi độ vật thực tại nhà thí-chủ.
Một hôm, một vị khách Tăng là bậc Thánh A-ra-hán từ phương xa đến đứng khất thực trước nhà thí-chủ.
Khi nhìn thấy Ngài khách Tăng, thí-chủ liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài khách Tăng, ông ra tận nơi kính thỉnh Ngài Trưởng-lão vào nhà, thỉnh Ngài Trưởng-lão ngồi chỗ cao quý, rồi kính dâng cúng-dường vật thực đến Ngài khách Tăng.
Ngài Trưởng-lão độ vật thực xong, người thí-chủ kính thỉnh Ngài thuyết-pháp, sau khi lắng nghe chánh-pháp thí-chủ phát sinh đức-tin vô cùng hoan hỷ, kính thỉnh Ngài khách Tăng đến nghỉ lại tại ngôi chùa.
Vị tỳ-khưu trụ trì theo dõi thấy người thí-chủ lần đầu tiên gặp vị khách Tăng này, cung-kính đón tiếp niềm nở, khiến cho vị tỳ-khưu trụ trì nghĩ rằng:
“Ta là vị trụ trì ở tại ngôi chùa nhiều năm, mà ông thí-chủ không đối xử với ta một cách niềm nở như vị khách Tăng này.”
Vì vậy, vị tỳ-khưu trụ trì dẫn Ngài khách Tăng về chùa, tiếp đón một cách lạnh nhạt, vị tỳ-khưu trụ trì chỉ phòng nghỉ cho Ngài Trưởng-lão.
Ngài khách Tăng làm vệ sinh căn phòng xong, rồi Ngài ngồi nhập quả-định (phalasamāpatti) làm cho thân tâm được an-lạc.
Vào buổi chiều, người thí-chủ đi với những người nhà đem hoa, các thứ thuốc trị bệnh đến chùa, người thí-chủ vào đảnh lễ vị tỳ-khưu trụ-trì, cúng-dường đến vị tỳ-khưu trụ-trì một phần, rồi bạch hỏi rằng:
- Kính bạch Ngài trụ-trì, Ngài khách Tăng nghỉ ở phòng nào? Bạch Ngài.
Vị tỳ-khưu trụ-trì chỉ cho ông thí-chủ biết căn phòng nghỉ của Ngài khách Tăng.
Ông thí-chủ đến hầu đảnh lễ Ngài khách Tăng, rồi kính dâng những hoa, và các thứ thuốc trị bệnh như bơ lỏng, mật ong, dầu, v.v… rồi kính thỉnh Ngài khách Tăng thuyết-pháp. Ông thí-chủ và những người nhà ngồi lắng nghe chánh-pháp đến tối.
Ông thí-chủ ra đốt đèn cúng-dường đến cây Đại-Bồ-đề, ngôi bảo tháp, đốt đèn xung quanh làm cho ngôi chùa sáng toả mọi nơi, rồi ông thí-chủ vào đảnh lễ Ngài trụ-trì, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Ngài trụ-trì, con kính thỉnh Ngài và Ngài khách Tăng ngày mai đến thọ thực tại tư gia của con. Bạch Ngài.
Kính bạch như vậy xong, ông thí-chủ đảnh lễ, xin phép trở về nhà.
Hằng ngày, ông thí-chủ thỉnh Ngài trụ-trì đi đến thọ thực tại nhà. Hôm ấy ông thí-chủ thỉnh Ngài khách Tăng ngày hôm sau cùng đến thọ thực tại nhà ông.
Vị tỳ-khưu trụ-trì nghĩ rằng: “Ông thí-chủ này mới gặp Ngài khách Tăng hôm nay, mà đối xử cung-kính đặc biệt với Ngài khách Tăng hơn cả với ta đã ở tại ngôi chùa này từ lâu. Nếu Ngài khách Tăng ở lại ngôi chùa này thì ông thí-chủ đâu còn cung-kính ta như trước nữa.”
Do tính ganh tỵ nghĩ sai lầm như vậy, nên vị tỳ-khưu trụ-trì không hài lòng để cho Ngài khách Tăng ở lại ngôi chùa này, nhưng chưa biết làm cách nào để Ngài khách Tăng đi ra khỏi chùa mà không làm mất lòng ông thí-chủ.
* Ngài khách Tăng biết rằng: “Vị tỳ-khưu trụ trì có thái độ không muốn ta ở lại ngôi chùa này.
Sáng ngày mai, ta sẽ rời khỏi ngôi chùa này, trở về chỗ ở của ta.”
Buổi sáng ngày hôm sau, đến giờ đi khất thực, vị tỳ-khưu trụ-trì đánh chuông bằng cách búng ngón tay, gõ cửa bằng móng tay, rồi âm thầm mang bát đi đến tư gia của ông thí-chủ.
Người thí-chủ ra đón rước Ngài trụ-trì, hai tay nhận cái bát, thỉnh mời vào nhà, thỉnh ngồi trên toạ cụ đã trải sẵn, người thí-chủ đảnh lễ vị tỳ-khưu trụ-trì, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Ngài trụ-trì, Ngài khách Tăng sao chưa đến? Bạch Ngài.
Vị tỳ-khưu trụ-trì bảo với ông thí-chủ rằng:
- Này ông thí-chủ! Ông kính trọng vị khách Tăng như thế nào không biết, còn sư đã đánh chuông, gõ cửa, mà ông ấy vẫn chưa thức dậy.
Hôm qua, vị khách Tăng độ vật thực của ông ngon miệng, còn no cho đến ngày hôm nay, sáng nay vị khách Tăng vẫn còn nằm ngủ say.
Vậy mà ông còn kính trọng vị khách Tăng như vậy sao!
* Biết vị tỳ-khưu trụ-trì đã đi khất thực rồi, nên Ngài khách Tăng mặc y, mang bát bay lên hư không đến nơi khác, đi khất thực.
Mặc dù nghe Ngài trụ-trì nói về Ngài khách Tăng như vậy, nhưng ông thí-chủ vẫn hoàn toàn không tin đó là sự-thật, mà có đức-tin trong sạch nơi Ngài khách Tăng là Bậc đáng tôn kính.
Cho nên, sau khi Ngài trụ-trì độ vật thực với món ăn đặc biệt gọi là pāyāsa (nấu bằng sữa, bơ, mật ong, đường thốt nốt rất công phu) xong, người thí-chủ đem cái bát rửa sạch, rồi bỏ món ăn pāyāsa vào đầy bát, đem đến bạch với Ngài trụ-trì rằng:
- Kính bạch Ngài trụ-trì, Ngài khách Tăng ấy có lẽ đi đường xa vất vả, nên còn mệt. Kính xin Ngài đem phần vật thực này về chùa, dâng đến Ngài khách Tăng. Bạch Ngài.
Kính bạch xong, ông thí-chủ kính dâng bát vật thực ấy đến Ngài trụ-trì. Ngài trụ-trì nhận cái bát, không hề nói lời nào.
Trên đường đi trở về chùa, vị tỳ-khưu trụ-trì nghĩ rằng: “Nếu vị khách Tăng ấy được ăn món pāyāsa ngon miệng này, dù ta nắm cổ lôi ra khỏi chùa, không dễ gì mà chịu đi ra khỏi chùa.
Nếu ta đem cho món ăn pāyāsa đến người khác thì chắc chắn sẽ bị lộ ra nhiều người biết, hoặc nếu ta đổ món ăn pāyāsa xuống nước thì dầu bơ nổi trên mặt nước, hoặc nếu ta đổ bỏ trên mặt đất, các bầy chim bay lại ăn thì sẽ bị lộ ra nhiều người biết.
Vậy, ta nên đổ bỏ món ăn pāyāsa này nơi nào?
Vừa đi vừa nghĩ, chợt nhìn thấy đám cháy, vị tỳ-khưu trụ-trì đi thẳng đến gần đám cháy, ngồi xuống đào đất, đổ bỏ món ăn pāyāsa xuống lỗ, lấp đất, cào đống than hồng phủ lên, chất thêm củi đốt cháy, rồi đứng dậy, như trút bỏ được gánh nặng, chắc chắn không có ai hay biết được việc làm của mình. Vị tỳ-khưu trụ-trì nhẹ nhõm đi trở về chùa.
Khi đến chùa, vị tỳ-khưu trụ-trì không thấy Ngài khách Tăng, nên nghĩ rằng: “Ngài khách Tăng ấy có lẽ là bậc Thánh A-ra-hán biết được ác-tâm xấu xa đê tiện của ta, nên Ngài đã bỏ đi đến nơi khác rồi!
Ôi! ta đã tạo ác-nghiệp nặng nề tồi tệ quá!”
Từ đó về sau, vị tỳ-khưu trụ-trì vô cùng hối hận, nên lâm bệnh nặng, không lâu vị tỳ-khưu trụ-trì ấy chết, sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, chịu thiêu đốt trong cõi địa-ngục suốt thời gian 100 ngàn năm, mới mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, năng lực của ác-nghiệp còn dư sót, nên tiếp tục cho quả tái-sinh kiếp sau làm dạ-xoa suốt 500 kiếp, mỗi kiếp đều chịu cảnh đói khổ, đến gần chết mới được ăn no một lần, rồi chết.
Trong vòng tử sinh luân-hồi, sinh kiếp nào thuộc về loại chúng-sinh nào không chỉ một mình chịu cảnh đói khát, mà còn làm cho những chúng-sinh gần gũi khác cũng bị ảnh hưởng quả của ác-nghiệp làm cho đói khổ, nên kiếp nào cũng bị xua đuổi ra khỏi nhóm.
Mỗi hậu kiếp của vị trụ-trì, đều bị đói khổ cho đến khi gần chết mới được ăn no một lần, rồi chết.
Kiếp Chót Của Vị Tỳ-Khưu Trụ-Trì
* Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp của vị tỳ-khưu trụ-trì kiếp chót, đại-thiện-nghiệp cho quả là đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận-sự tái-sinh kiếp chót đầu thai thuộc hạng người tihetukapuggala: người tam-nhân([7]) trong xóm một ngàn gia đình dân chài trong vùng Kosala.
Trong ngày đầu thai vào lòng mẹ, những người trong một ngàn gia đình dân chài đem lưới đi bắt cá trong sông, hồ, mọi nơi, đều không bắt được con cá nhỏ nào cả, những ngày tiếp theo cũng như vậy.
Trong khi người đàn bà mang thai, xóm 1.000 gia đình dân chài bị cháy nhà liên tiếp 7 lần, bị phạt vạ 7 lần. Xóm 1.000 gia đình phải chịu bao nhiêu nỗi đói khổ, thiếu thốn, không có nơi nương tựa.
Khi ấy, vị trưởng xóm thông báo các gia đình trong xóm họp lại, rồi nói rằng:
- Thưa quý bà con! Trong xóm 1.000 gia đình chúng ta từ trước đến nay, chưa có xảy ra những tai nạn liên tiếp như thế này, chưa từng gặp cảnh đói khổ như thế này!
Trong 1.000 gia đình chúng ta chắc có “kālakaṇṇī: người xúi quẩy.”
Vậy, chúng ta nên chia ra làm 2 nhóm riêng biệt, mỗi nhóm có 500 gia đình.
* Nhóm 500 gia đình không có người mẹ mang thai thì làm ăn bình thường như trước.
* Nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai thì vẫn làm ăn vất vả đói khổ, cho nên, chia ra làm 2 nhóm. Mỗi nhóm có 250 gia đình.
* Nhóm 250 gia đình có người mẹ mang thai thì vẫn làm ăn vất vả đói khổ, cho nên chia ra làm 2 nhóm. Mỗi nhóm có 125 gia đình.
* Và cứ chia 2 nhóm như vậy, cuối cùng chỉ còn 2 gia đình. Mọi người biết gia đình có người mẹ mang thai là gia đình có người“kālakaṇṇī: người xúi quẩy”nên họ xua đuổi gia đình này ra khỏi nhóm dân chài.
* Gia đình có người mẹ mang thai, hằng ngày, phải chịu cảnh đói khổ, nhưng thai nhi trong bụng mẹ là kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, cho nên, dù đói khổ thế nào cũng không thể ảnh hưởng đến sinh mạng của thai nhi được.
* Thai nhi đủ tháng, người mẹ sinh ra đứa bé trai, mẹ cha nuôi dưỡng đứa con rất vất vả khổ cực, cho đến khi đứa con khôn lớn đi lại được.
Một hôm, người mẹ dẫn đứa con vào kinh-thành, đi xin ăn, người mẹ trao cho đứa con cái bát đất nung, dạy bảo đứa con trai rằng:
- Này con đáng thương! Mẹ đã khổ vì con suốt mấy năm qua, thân mẹ gầy yếu không thể lo nuôi dưỡng con được nữa. Con nên cầm bát đi xin ăn nhà đằng kia.
Dạy bảo đứa con trai như vậy xong, người mẹ lẫn trốn đi nơi khác. Từ đó, đứa bé trai một mình đi xin ăn bữa có bữa không, chưa có bữa nào được no bụng cả, sống lay lắt qua ngày.
Đứa bé trai sống lang thang vất vưởng, nằm ngủ nơi này nơi khác, không tắm giặt, thân thể dơ dáy đáng ghê tởm, miễn sao kiếm sống lay lắt qua ngày là được.
Ngài Đại-Trưởng-Lão Sāriputta Tế Độ Đứa Bé Trai
* Năm lên 7 tuổi, đứa bé trai ngồi bên cạnh nhà, lượm từng hạt cơm mà người ta rửa nồi đổ bỏ, như loài quạ.
Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi khất thực trong kinh-thành Sāvatthī, nhìn thấy đứa bé trai đáng thương, Ngài Đại-Trưởng-lão phát sinh tâm bi muốn cứu khổ, nên gọi rằng:
- Này đứa bé đáng thương! Hãy đến đây!
Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão gọi, đứa bé ngoan ngoãn đến đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão, rồi chắp hai tay lại.
Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi đứa bé rằng:
-Này đứa bé đáng thương! Mẹ cha con ở đâu?
Đứa bé cung-kính bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Mẹ cha của con nói với con rằng: “Bởi vì con làm cho mẹ cha phải chịu cảnh đói khổ” nên mẹ cha bỏ con trốn đi rồi. Bạch Ngài.
Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi đứa bé rằng:
- Này bé đáng thương! Con muốn xuất gia hay không?
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con rất tha thiết muốn xuất gia, nhưng đứa bé mồ côi như con, ai mà cho phép con xuất gia được.
- Này đứa bé đáng thương! Sư sẽ cho phép con xuất gia.
Đứa bé vô cùng hoan hỷ bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm bi tế độ cho phép con xuất gia.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta lấy vật thực cho đứa bé, dẫn đứa bé trở về đến chùa, cho tắm sạch sẽ, cạo tóc, mặc y, rồi làm lễ xuất gia trở thành Sāmaṇera: Sa-di có tên là Losakatissa.
Vị sa-di Losakatissa có ít tài lộc nhất, hằng ngày, vị sa-di Losakatissa đi khất thực, thí-chủ để vào bát một vài vá cơm, nhìn thấy giống như đã đầy bát rồi, nên không để thêm vào bát nữa.
Vì vậy, hằng ngày vị sa-di Losakatissa độ vật thực không đủ no, chỉ đủ sống qua ngày thực-hành phạm hạnh cao thượng mà thôi.
Khi vị sa-di Losakatissa có đủ 20 tuổi, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cho phép làm lễ hành tăng-sự (saṃghakamma) upasampadā nâng lên trở thành bhikkhu: tỳ-khưu trong Phật-giáo.
Mặc dù hằng ngày tỳ-khưu Losakatissa độ vật thực không đủ no, nhưng vẫn tinh-tấn không ngừng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao-thượng trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Tỳ-khưu Losakatissa đã là bậc Thánh A-ra-hán, hằng ngày, Ngài vẫn có vật thực độ không đủ no, làm cho thân thể của Ngài ngày một gầy yếu, đến ngày Ngài Trưởng-lão Losakatissa sắp tịch diệt Niết-bàn.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết rõ Ngài Trưởng-lão Losakatissa sắp tịch diệt Niết-bàn, nên nghĩ rằng:
“Hôm nay, để cho Trưởng-lão Losakatissa độ vật thực no đủ, trước khi tịch diệt Niết-bàn.”
Hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn Ngài Trưởng-lão Losakatissa theo sau đi vào khất thực trong kinh-thành Sāvatthī có dân chúng đông đảo, mà không có một ai cúng-dường để bát một vá cơm nào cho Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cả.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết rõ nguyên nhân, nên dẫn Trưởng-lão Losakatissa trở về chùa, rồi dạy bảo Trưởng-lão Losakatissa ngồi đợi tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng, Ngài Đại-Trưởng-lão sẽ cho người đem vật thực đến cúng-dường.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở lại đi khất thực trong kinh-thành Sāvatthī, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ vô cùng hoan hỷ đón tiếp Ngài Đại-Trưởng-lão, kính dâng cúng-dường những thứ vật thực đầy đủ.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta truyền bảo một người đem một phần vật thực đến chùa, gặp Ngài Trưởng-lão Losakatissa tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng, rồi dâng cúng-dường những thứ vật thực ấy đến Ngài Trưởng-lão Losakatissa.
Người nhận đem những thứ vật thực ấy, trên đường đi quên hẳn, không còn nhớ đến ai cả, cho nên Ngài Trưởng lão Losakatissa ngồi đợi mà không nhận được vật thực ấy.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta độ vật thực xong, trở về chùa. Trưởng-lão Losakatissa đến đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta truyền hỏi:
- Này Losakatissa! Con đã nhận được những vật thực rồi phải không?
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão. Con không nhận được những vật thực nào cả. Bạch Ngài.
Nghe Trưởng-lão Losakatissa bạch như vậy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta phát sinh động tâm, biết thời gian vẫn còn, nên Ngài Đại-Trưởng-lão dạy bảo rằng:
- Này Losakatissa! Con nên trở lại ngồi chỗ cũ, đợi sư phụ trở về nhé con!
Vâng lời dạy, Ngài Trưởng-lão Losakatissa trở lại ngồi đợi tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi thẳng vào cung điện của Đức-vua Pasenadi Kosala. Đức-vua ngự ra nhận bát của Ngài Đại-Trưởng-lão, suy xét không phải là thời gian để những món vật thực, nên Đức-vua để bát 4 thứ đồ ngọt là bơ lỏng, mật ong, dầu mè, đường thốt nốt đầy bát, rồi đem đến kính dâng bát lên Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.
Sau khi nhận cái bát đầy 4 thứ đồ ngọt xong, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi trở về chùa, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta vẫn ôm cái bát, gọi Trưởng-lão Losakatissa đến dạy bảo rằng:
- Này Losakatissa! Con hãy lấy 4 thứ đồ ngọt mà dùng cho no đủ hôm nay.
Tỳ-khưu Losakatissa không dám lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát mà Ngài Đại-Trưởng-lão đang ôm trên tay để dùng, nên Ngài Đại-Trưởng-lão dạy bảo rằng:
- Này Losakatissa! Con cứ tự nhiên lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát mà dùng. Nếu Sư phụ để cái bát rời khỏi tay thì chẳng còn thứ gì cho con dùng hôm nay cả.
Vâng theo lời dạy bảo, Ngài Trưởng-lão Losakatissa đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, rồi xin lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát dùng no đủ ngày hôm ấy.
* Ngay ngày hôm ấy, Ngài Trưởng-lão Losakatissa tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, đồng thời tất cả mọi ác-nghiệp và mọi thiện-nghiệp đã lưu trữ ở trong tâm từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp trong quá-khứ cho đến trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tất cả mọi nghiệp ấy đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ-hội cho quả được nữa.
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy chư tỳ-khưu làm lễ hoả táng thi thể của Ngài Trưởng-lão Losakatissa, rồi xây ngôi tháp tôn thờ phần Xá-lợi của Ngài Trưởng-lão Losakatissa.
Nghiệp Và Quả Của Nghiệp Của Ngài Trưởng-lão Losakatissa
Vô số tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losaka-tissa đã tích-luỹ đầy đủ đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nên kiếp hiện-tại đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật ấy cho quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa đã tạo ác-nghiệp đổ bỏ vật thực của bậc Thánh A-ra-hán, nên ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả khổ trong mỗi kiếp bị đói khổ, cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.
Nghiệp và quả của nghiệp là công bằng, không hề thiên vị một ai cả.
* Quả An-lạc Của Thiện-Nghiệp Ảnh Hưởng Đến Những Người Thân Cận
* Tích Ngài Trưởng-lão Sīvali([8]) được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali là một người cận-sự-nam trong một gia đình giàu có trong kinh-thành Haṃsavatī.
Một hôm, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đến chùa nghe Đức-Phật Padumuttara thuyết pháp. Khi ấy, Đức-Phật tuyên dương một vị Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử tên Sudassana có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Người cận-sự-nam, tiền-kiếp của Ngài Trưởng lão Sīvali thấy Ngài Trưởng-lão Sudassana, liền phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch, có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ tử của Đức-Phật vị-lai, như Ngài Trưởng-lão Sudassana ấy.
Người cận-sự-nam ấy đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Padumuttara, rồi kính thỉnh Đức-Phật ngự đến tư gia cùng với 500 Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để làm phước-thiện đại thí suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, người cận-sự-nam cúng-dường bộ y đến Đức-Phật Padumuttara cùng 500 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng mỗi vị 1 bộ.
Sau khi dâng bộ y xong, người cận-sự-nam ấy đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Phước-thiện bố-thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không cầu mong gì khác hơn là có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ tử của Đức-Phật trong thời vị-lai, như Ngài Đại-đức Sudassana của Đức-Thế-Tôn bây giờ.
Đức-Phật Padumuttara dùng trí-tuệ vị-lai kiến minh thấy rõ, biết rõ nguyện vọng của người cận-sự-nam này sẽ thành tựu trong kiếp vị-lai, nên Đức-Phật thọ ký xác định thời gian rằng:
- “Này chư Tỳ-khưu! Kể từ kiếp trái đất này, trong thời vị-lai sẽ trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất. Đến kiếp trái đất gọi Bhaddakappa có Đức-Phật Gotama(1) xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, người cận-sự-nam này sẽ sinh trong hoàng tộc, từ bỏ nhà xuất gia sẽ trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Đại-Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, như Sudassana là bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử của Như Lai bây giờ.”
Lắng nghe lời thọ ký xác định của Đức-Phật Padumuttara, người cận-sự-nam vô cùng hoan hỷ tạo mọi phước-thiện bố-thí 4 thứ vật dụng đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến trọn đời.
Trong vòng tử sinh luân-hồi, do đại-thiện-nghiệp ấy chỉ cho quả tái-sinh kiếp sau khi thì sinh làm vị thiên-nam cao quý trong cõi trời dục-giới, hoặc khi thì sinh làm người cao quý trong cõi người mà thôi. Khi sinh làm người có đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật nhất là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật.
* Trong thời-kỳ Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali, sinh trong ngôi làng không xa kinh-thành Bandhumatī. Khi ấy, dân chúng kinh-thành Bandhumatī sửa soạn chuẩn bị làm phước-thiện đại-thí cúng-dường vật thực lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư tỳ-khưu-Tăng. Trong các món ăn ấy còn thiếu món bơ đặc và mật ong.
Khi ấy, người dân làng (tiền-kiếp Ngài Trưởng-lão Sīvali) đi đến kinh-thành, có đem theo món bơ đặc và tổ mật ong.
Nhìn thấy người dân làng có đem theo món bơ cứng và tổ mật ong, người dân kinh-thành muốn mua 2 món ấy với giá cao là 1 kahāpana. Người dân làng suy nghĩ rằng: “Hai món này của ta đâu có đáng giá đến 1 kahāpana, sao người ấy dám mua với giá cao như vậy. Ta nên dò xét để biết sự-thật.”
Người dân làng giả làm bộ không chịu bán với giá 1 kahāpana, thì người ấy tăng lên 2 kahāpana, 5 kahāpana, … 10 kahāpana, … 100 kahāpana, cuối cùng lên đến giá 1000 kahāpana.
Khi ấy, người dân làng muốn biết sự-thật nên hỏi người ấy rằng:
- Này bạn thân mến! Hai món bơ đặc và tổ mật ong này không đáng giá là bao nhiêu, vì sao bạn trả giá cao như vậy, bạn cần 2 món này để sử dụng vào công việc gì? Bạn có thể nói cho tôi biết được hay không?
Người dân kinh-thành nói rằng:
- Này bạn thân mến! Dân kinh-thành chúng tôi đồng nhau cùng làm phước-thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Trong các món ăn còn thiếu món bơ đặc và mật ong. Vì vậy, với giá nào, chúng tôi cũng mua cho được 2 món ấy.
Người dân làng thưa rằng:
- Này thưa bạn thân mến! Việc làm phước-thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, dành cho dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, còn người khác làm phước-thiện bố-thí cúng-dường được hay không?
Người kinh-thành thưa rằng:
- Này thưa bạn thân mến! Việc làm phước-thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, không chỉ dành cho dân chúng trong kinh-thành Bandhu-matī, mà còn những người khác cũng làm phước-thiện bố-thí cúng-dường được vậy.
Người dân làng thưa khẳng định rằng:
- Này thưa bạn thân mến! Bạn nên thông báo cho mọi người biết rằng: Hôm nay, việc làm phước-thiện bố-thí cúng-dường các món vật thực có đầy đủ cả 2 món bơ đặc và mật ong lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Xin bạn làm chứng tôi đem 2 món bơ đặc và mật ong đến cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī, hôm nay.
Người dân làng (tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali) cảm thấy vô cùng hoan hỷ có được cơ-hội làm phước-thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī, nên đi tìm thêm những gia vị vắt lấy nước trộn vào mật ong và bơ đặc làm thành món ăn đặc biệt, rồi gói bằng lá sen, đi đến ngồi chờ không xa Đức-Phật.
Những người đến cúng-dường các món vật thực đến Đức-Phật xong, đến cơ-hội người dân làng đến hầu Đức-Phật bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Đây là món ăn đạm bạc của con kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Thế-Tôn chủ trì. Kính xin Đức-Thế-Tôn có đại-bi tế độ nhận món ăn này của con.
Đức-Phật Vipassī có đại-bi tế độ nhận món ăn đạm bạc ấy bằng cái bát ngọc do Tứ-đại-thiên-vương kính dâng, rồi Đức-Phật phát nguyện món ăn đạm bạc ấy ra thành nhiều đủ chia đến 68.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Thấy Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng thọ thực xong, người dân làng (tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali) đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ kính bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Hôm nay, dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī đem các món vật thực đến cúng-dường lên Đức-Thế-Tôn, và con cũng cúng-dường món ăn đặc biệt ấy lên Đức-Thế-Tôn, do năng lực của quả đại-thiện-nghiệp bố-thí cúng-dường này, xin cho con kiếp nào con cũng có tài lộc bậc nhất.
Nghe lời nguyện cầu như vậy, Đức-Phật Vipassī truyền dạy rằng:
- Này con! Xin cho lời nguyện cầu của con sẽ được thành-tựu như ý.
Sau đó, Đức-Phật Vipassī thuyết-pháp tế độ dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, rồi ngự trở về ngôi chùa cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Người dân làng cố gắng tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho đến trọn kiếp.
Trong vòng tử sinh luân-hồi, chỉ có đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm người trong cõi người hoặc sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới. Kiếp làm người cố gắng tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ.
Hoàng-Tử Sīvali Kiếp Chót
* Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của người cận-sự-nam trong thời kỳ Đức-Phật Padumuttara, đã bồi bổ đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nên sau khi chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp chót vào lòng Hoàng-hậu Suppavāsā đất nước Koliya.
Từ khi tái-sinh đầu thai kiếp chót (thai-nhi Sīvali) nằm trong bụng bà Hoàng-hậu Suppavāsā, do năng lực đại-thiện-nghiệp của thai-nhi Sīvali nằm trong bụng, Hoàng-hậu Suppavāsā từ sáng đến chiều, nhận những phẩm vật quý giá từ mọi nơi đem đến làm quà quý báu kính dâng lên Hoàng-hậu.
Khi ấy, hoàng-tộc muốn biết Hoàng-hậu có nhiều phước như thế nào, nên mời Hoàng-hậu đến kho lương thực, mời Bà chạm tay vào cửa kho, thì kho đầy lương thực, Bà chạm tay vào cửa kho nào, thì kho ấy đầy của cải. Cho nên, mọi người trong hoàng tộc đều tán dương ca tụng rằng:
“Hoàng-hậu là người có nhiều phước.”
Một hôm, thị-nữ đem nồi cơm đầy dâng đến Hoàng-hậu, mời Bà chạm tay vào cái nồi, dù có bao nhiêu người xới cơm ra ăn, nồi cơm vẫn không vơi chút nào cả.
Đó là quả đại-thiện-nghiệp của thai-nhi Sīvali nằm trong bụng của Mẫu-hậu.
Hoàng-Tử Sīvali Nằm Trong Bụng Mẫu-Hậu
Hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng Hoàng-hậu Suppavāsa suốt 7 năm, trong 7 ngày sắp sinh ra đời, Hoàng-hậu Suppavāsa chịu nỗi đau đớn đến cùng cực vì cái thai nhi trong bụng không sinh ra được cho đến ngày thứ 7([9]), tưởng chừng không thể sống nổi, nên Hoàng-hậu Suppavāsa tâu với Đức-vua phu quân rằng:
- Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn làm phước-thiện bố-thí, trước khi chết.
Kính xin Hoàng-thượng ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch về chuyện thần thiếp đang chịu đau đớn đến cùng cực vì cái thai trong bụng không sinh ra được rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để cho Hoàng-hậu Suppavāsā làm phước-thiện bố-thí.
Nghe Đức-Phật truyền dạy thế nào, xin Hoàng thượng ghi nhớ thế ấy, khi hồi cung truyền lại cho thần thiếp biết.
Nghe lời tâu của Hoàng-hậu Suppavāsā, Đức-vua ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch y theo lời của Hoàng-hậu Suppavāsā.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
“Sukhinī hotu Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā arogaṃ puttaṃ vijāyatu.”
Mong cho Suppavāsā Công-chúa dòng Koliya được thân tâm an-lạc, không có bệnh, sinh ra đứa con cũng được an toàn.
Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức-vua kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép hồi cung.
Tại cung điện, hoàng-tử sinh ra khỏi lòng Mẫu-hậu một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.
Mọi người trong hoàng-tộc vô cùng hoan hỷ thấy hoàng-tử sinh ra đời an toàn, cùng nhau đến chờ chầu Đức-vua tâu tin lành này.
Đức-vua ngự về đến cung điện, thấy mọi người hoàng-tộc hân hoan vui mừng, tâu với Đức-vua tin lành là hoàng-tử sinh ra đời được an toàn.
Khi ấy, Đức-vua suy nghĩ rằng:
“Lời truyền dạy của Đức-Thế-Tôn có hiệu quả đúng như thật.”
Đức-vua ngự đến gặp Hoàng-hậu Suppavāsā, truyền lại y theo lời của Đức-Thế-Tôn cho Hoàng-hậu nghe.
Hoàng-hậu Suppavāsā tâu với Đức-vua phu-quân rằng:
- Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn làm phước thiện bố-thí cúng-dường đến Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng suốt 7 ngày.
Đức-vua chấp thuận lời tâu của Hoàng-hậu.
Hoàng-tử sinh ra đời đã dập tắt được sự nóng lòng của mọi người trong hoàng-tộc, nên làm lễ đặt tên hoàng-tử là Sīvali nghĩa là mát mẻ, nên gọi là hoàng-tử Sīvali.
Đức-vua kính thỉnh Đức-Phật ngự đến cung điện cùng với chư tỳ-khưu-Tăng, để làm phước-thiện bố-thí cúng-dường vật thực suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta hỏi hoàng-tử Sīvali rằng:
- Này hoàng-tử Sīvali! Con đã chịu đựng nỗi khổ ở trong lòng Mẫu-hậu lâu như vậy, nay con muốn xuất gia để giải thoát khổ hay không?
Hoàng-tử Sīvali bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Con muốn xuất gia, nếu con được mẫu-hậu và phụ-vương cho phép.
Thấy hoàng-tử bạch chuyện với Ngài Đại-Trưởng-lão, Hoàng-hậu Suppavāsā muốn biết, nên đến bạch hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Hoàng-nhi của con bạch điều gì với Ngài Đại-Trưởng-lão vậy?
- Này Hoàng-hậu! Hoàng-tử của Bà bạch về nỗi khổ nằm trong lòng mẫu-hậu suốt thời gian lâu dài như vậy, nên bạch rằng: “Con muốn xuất gia, nếu con được mẫu-hậu và phụ-vương cho phép.”
Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão nói thuật lại như vậy, nên Hoàng-hậu Suppavāsā vô cùng hoan hỷ đồng ý cho phép hoàng-tử Sīvali đi xuất gia, Bà bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ tế độ cho phép hoàng-tử của con được xuất gia. Bạch Ngài.
Hoàng-Tử Sīvali Xuất Gia
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn hoàng-tử Sīvali trở về chùa. Khi làm lễ cạo tóc, Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy hoàng-tử Sīvali thực-hành niệm đề-mục “tacapañcakakammaṭṭhāna: đề-mục thiền-định nhóm tacapañcaka đó là kesā, lomā, nakkhā, dantā, taco, … taco, dantā, nakkhā, lomā, kesā, … (tóc, lông, móng, răng, da,… da, răng, móng, lông, tóc,…) theo chiều thuận, theo chiều nghịch.
Hoàng-tử Sīvali thực-hành niệm đề-mục thiền-định nhóm tacapañcaka ấy, trong khi đang làm lễ cạo tóc:
* Khi những sợi tóc đầu tiên rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
* Tiếp theo những sợi tóc thứ nhì rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
* Tiếp theo những sợi tóc thứ ba rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
* Tiếp theo những sợi tóc cuối cùng rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng một lúc với lễ cạo tóc không trước không sau.
Khi ấy, Hoàng-tử Sīvali, kể từ khi tái-sinh đầu thai kiếp chót vào lòng mẫu-hậu Suppavāsā suốt 7 năm và chịu khổ suốt 7 ngày mới sinh ra đời được 7 ngày, vì vậy, hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh A-ra-hán lúc 7 năm và 14 ngày.([10])
Kể từ ngày Ngài Đại-đức Sīvali trở thành Sa-di, hằng ngày các hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ dâng cúng-dường 4 thứ vật dụng đến cho Ngài Đại-đức Sīvali cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng càng ngày càng đầy đủ, sung túc mà trước đây chưa từng có.
* Khi Ngài Đại-đức Sīvali tròn 20 tuổi, được làm lễ nâng lên bậc tỳ-khưu, những thứ vật dụng lại càng được phát sinh đầy đủ, sung túc đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng nhiều hơn nữa.
Hễ mỗi khi có đoàn chư tỳ-khưu đông đảo phải đi tế độ chúng-sinh từ xứ này sang xứ khác trên con đường dài, đi qua vùng hẻo lánh, không có dân cư; nếu có Ngài Trưởng-lão Sīvali cùng đi trong đoàn, đến giờ khất thực, do năng-lực của đại-thiện-nghiệp bố-thí của Ngài Trưởng-lão Sīvali, khiến cho chư-thiên hóa ra xóm làng, thành thị, hiện ra dân cư đông đảo cúng-dường y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đầy đủ đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Khi đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đi khỏi vùng ấy, thì xóm làng, thành thị kia biến mất.
Một hôm, chư tỳ-khưu hội họp bàn về Ngài Trưởng-lão Sīvali có nhiều tài lộc đặc biệt không chỉ được phát sinh đến cho Ngài Trưởng-lão Sīvali, mà còn đến tất cả chư tỳ-khưu, dù nhiều bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ, sung túc.
Thật là điều phi thường, không những các hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ là thí chủ, mà còn có chư-thiên, Long-vương cũng đem lễ vật, các thứ vật dụng dâng cúng-dường đến cho Ngài Trưởng-lão Sīvali cùng tất cả chư tỳ-khưu bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ, sung túc.
Trong khi chư tỳ-khưu đang bàn luận về lợi lộc đặc biệt của Ngài Trưởng-lão Sīvali, thì Đức-Thế-Tôn ngự đến, Ngài truyền dạy rằng:
“Các con đang bàn luận về chuyện gì vậy?”
Chư tỳ-khưu bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang bàn về quả phước-thiện đặc biệt của Ngài Trưởng-lão Sīvali. Bạch Ngài.
Nhân dịp ấy, Đức-Phật chủ trì buổi hội chư tỳ-khưu-Tăng, Đức-Phật tuyên dương Ngài Trưởng-lão Sīvali trước các hàng thanh-văn đệ- tử rằng:
“Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali!”
- Này chư Tỳ-khưu! Sīvali là bậc Thánh Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.
Ngài Trưởng-lão Sīvali là bậc Thánh Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama. Đó là sự thành-tựu như ý nguyện mà tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đã từng phát nguyện, đã được Đức-Phật Padumuttara quá-khứ thọ ký đúng như vậy.
Quả Ác-Nghiệp Của Hoàng-Tử Sīvali
Dựa theo Khadiyavaniyarevatattheravatthu([11]) có đoạn đề cập đến ác-nghiệp mà tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali đã tạo trong kiếp quá-khứ được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali là người dân làng cùng với dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, đã làm phước-thiện bố-thí cúng-dường món ăn bơ đặc với mật ong đặc biệt ấy đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật Vipassī chủ trì.
Khi ấy, Đức-Phật Vipassī nhận món ăn đặc biệt ấy, rồi phát nguyện, đem chia món ăn ấy đầy đủ cho 68.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Người dân làng sau khi chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam trên các cõi trời dục-giới.
Một thuở nọ, vị thiên-nam sau khi chết tại cõi trời dục-giới ấy, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai vào lòng Hoàng-hậu của Đức-vua trị vì tại kinh-thành Bārāṇasī.
Hoàng-hậu sinh hạ ra hoàng-tử khôi ngô tuấn tú. Khi hoàng-tử trưởng thành có tài thao lược.
Cho nên, Đức-Phụ-vương sau khi băng hà, triều đình làm hoả táng xong, các quan trong triều làm lễ suy tôn hoàng-tử lên nối ngôi vua.
Đức-Vua Đem Quân Vây Hãm 4 Cửa Kinh-Thành
Sau khi lên ngôi làm vua, Đức-vua muốn đánh chiếm kinh-thành nước khác, được Mẫu-hậu đồng ý, nên Đức-vua dẫn đầu kéo các đoàn quân lính đến bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành ấy. Đức-vua truyền cho sứ giả gửi tối-hậu-thư đến Đức-vua trong kinh-thành rằng:
“Hãy trao lại ngôi vua cho trẫm hoặc đánh nhau.”
Đức-vua trong kinh-thành trả lời rằng:
“Trẫm không trao ngôi vua, cũng không đánh nhau.”
Những người dân trong kinh-thành đi ra vào lấy củi, nước, các thứ cần thiết bằng các cửa nhỏ, làm được mọi công việc hằng ngày.
Đức-vua cùng với các đoàn quân lính bên ngoài bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành suốt 7 năm, 7 tháng.
Hoàng-thái-hậu của Đức-vua truyền hỏi rằng:
- Này các khanh! Hoàng-tử của ta đang làm gì vậy?
Các quan tâu rằng:
- Muôn tâu Hoàng-thái-hậu, Đức-vua đã truyền lệnh các đoàn quân lính bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành suốt 7 năm, 7 tháng rồi. Tâu Lệnh bà.
Nghe các quan tâu như vậy, Hoàng-thái-hậu quở trách rằng: “Hoàng-tử của ta còn khờ quá!”
Hoàng-thái-hậu truyền lệnh rằng:
- Này các khanh! Các khanh hãy tâu với Hoàng-tử của ta rằng:
“Hãy đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành nữa.”
Tuân theo lệnh của Mẫu-hậu, Đức-vua truyền lệnh các đoàn quân đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành nữa.
* Dân chúng trong kinh-thành không đi ra bên ngoài kinh-thành được, cảm thấy bực dọc, thiếu thốn mọi thứ, nên đến ngày thứ 7, dân chúng giết chết Đức-vua trong kinh-thành, rồi dâng ngôi vua cho Đức-vua bên ngoài.
* Đức-vua (tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali) sau khi băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, bị thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
* Sau khi thoát khỏi cõi địa-ngục, đại-thiện-nghiệp (mà tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali đã tạo) cho quả tái-sinh đầu thai kiếp chót trong lòng Hoàng-hậu Suppavāsā (tiền-kiếp là mẫu-hậu của Đức-vua), thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm trong bụng Mẫu-hậu suốt 7 năm, 7 tháng và chịu thêm quả khổ của ác-nghiệp suốt 7 ngày, bị đau đớn đến cùng cực cả Mẫu-hậu lẫn thai-nhi, bởi vì thai-nhi nằm ngang không sinh ra được.
Đến ngày thứ 7, Đức-Phật Gotama truyền dạy rằng:
“Sukhinī hotu Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā arogaṃ puttaṃ vijāyatu.”
Đức-Phật sau khi truyền dạy xong, tại cung điện, hoàng-tử Sīvali sinh ra khỏi lòng Mẫu-hậu một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.
* Thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm trong bụng Mẫu-hậu suốt 7 năm, 7 tháng, đó là quả của ác-nghiệp bao vây hãm 4 cửa kinh-thành của đất nước khác.
* Thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm ngang trong vòng 7 ngày không sinh ra được, đó là quả của ác-nghiệp tuân theo lệnh của mẫu-hậu đóng chặt các cửa nhỏ của kinh-thành, không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành, nên mẫu-hậu và thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) cùng nhau chịu quả thống khổ của ác-nghiệp ấy suốt 7 ngày đêm.
Nghiệp Và Quả Của Nghiệp Của Ngài Trưởng-Lão Sīvali
* Vô số tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đã tích-luỹ đầy đủ đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật hơn 100 ngàn đại-kiếp trái đất và lời phát nguyện được Đức-Phật Padumuttara quá-khứ thọ ký, nên đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật ấy cho quả kiếp hiện-tại hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh A-ra-hán là bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, đúng theo lời thọ ký của Đức-Phật Padumuttara.
* Tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali là Đức-vua được mẫu-hậu đồng tình, nên dẫn các đoàn quân đến vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành khác suốt 7 năm, 7 tháng, rồi nghe theo lệnh của mẫu-hậu đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành, suốt 7 ngày. Đức-vua chiếm được kinh-thành.
* Hậu kiếp của Đức-vua, nay kiếp hiện-tại là Hoàng-tử Sīvali.
* Hậu-kiếp của Mẫu-hậu, nay kiếp hiện-tại là Hoàng-hậu Suppavāsā.
- Đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Hoàng-tử Sīvali, nên trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
- Ác-nghiệp của Hoàng-tử Sīvali vây hãm kinh thành nước khác suốt 7 năm 7 tháng và thêm 7 ngày, nên phải nằm trong bụng Mẫu-hậu suốt 7 năm 7 tháng thêm 7 ngày mới sinh ra đời.
Như vậy, nghiệp và quả của nghiệp theo định luật nhân quả, nhân nào thì có quả ấy.
Như câu kệ dạy về nghiệp và quả của nghiệp
“Yādisaṃ vapate bījaṃ,
tādisaṃ harate phalaṃ.
Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ,
Pāpakārī ca pāpakaṃ.”([12])
Người nào gieo hạt giống thế nào,
Người ấy gặp quả như thế ấy.
Người hành thiện thì được quả thiện,
Người hành ác thì chịu quả ác.
Ngũ-Giới (pañcasīla) là Thường-Giới (nicca- sīla, hành-giả giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thuộc về pháp-hành-giới thanh-tịnh để làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho pháp-hành thiền-định và pháp-hành thiền-tuệ([13]) được phát triển.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét