Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

PHÁP DUYÊN KHỞI (PATICCASAMUPPÀDA) - PHẦN VIII (2)




SẦU KHỔ VÀ TA THÁN

Già, bệnh và chết là ba cái khổ không thể tránh được, chừng nào sự tái sanh còn xảy ra trong dòng danh sắc đang biến hoại. Tái sanh cũng dẫn đến sầu khổ, lo âu, ta thán và khổ não.
Chúng ta khổ lụy khi có một người trong gia đình bị chết. Nỗi thương tiếc trùm xuống khi chúng ta mất đi một người nào đó, chẳng hạn như cha, mẹ hay chồng mà chúng ta phải nương tựa vào, hoặc một đứa con trai hay con gái mà chúng ta yêu chuộng. Một nguyên nhân khác của sự sầu khổ là sự mất mát tiền bạc, của cải, bởi những vị quan ác, bọn cướp, kẻ trộm, bảo lụt hay những đứa con phá của. Sự sầu khổ cũng sanh lên do bệnh tật và sức khỏe yếu kém. Một số người bịnh quá bi quan đến nỗi những trạng thái tinh thần của họ trở thành chướng ngại cho sự bình phục. Người có giới cũng tiếc nuối, buồn bực khi giới hạnh của mình bị suy sụp. Sự buồn bực và hối tiếc cũng hành hạ những người nhận ra lỗi lầm của mình sau khi từ bỏ chánh kiến để đi theo tà kiến dưới sự hướng dẫn của các vị tà sư.
Ngoài ra, còn có nhiều điều bất hạnh khác trong cuộc sống. Ví dụ: Các tai hoạ, tức là: Nạn nhân của bọn cướp v.v..., sự khổ nhọc trong việc kiếm sống và việc kiếm về những nhu cầu của cuộc sống v.v... mà tạo ra bao điều đau đớn, sầu khổ và ta thán.
Khỏi phải nói nhiều về những điều khổ thân ở địa ngục, ngạ quỉ và cõi súc sanh. Do có thức mà con người phải chịu đau khổ khi tiếp xúc với những cảnh không vừa lòng. Cái khổ nơi thân thường dẫn theo cái khổ nơi tâm. Ðiều này không áp dụng cho vị A-la-hán hoặc vị A-na-hàm, vì các Ngài không buồn khổ, lo lắng, dầu đang bị khổ nơi thân và vị hành giả có chánh niệm, thoát khỏi ngã kiến, không còn than thân cũng không bị khổ thân trong khi cảm thọ cái khổ nơi thân. Do đó, điều quan trọng trong giáo pháp của Ðức Phật là chúng ta cần phải giác tỉnh với khổ thọ khi chúng ta gặp phải.
Người ta sẽ không hạnh phúc khi nghĩ đến những cảnh khổ bi đát và những điều bất hạnh xảy đến với họ trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai. Họ cảm thấy đau đớn, sầu khổ khi thấy mình bị những điều rủi ro đè nặng.
Tất cả những điều khổ này có mặt vì có sự sanh. Ðời sống hoàn toàn đau khổ nếu không có chỗ đứng của cái ta và không có điều gì tốt đẹp.
Theo giáo lý duyên khởi, điều duy nhất nối kiếp sống này với kiếp sống khác là mối quan hệ nhân quả. Do ái dục, nghiệp hành,v.v..., bắt nguồn từ vô minh trong một kiếp sống, có sanh khởi năm loại quả, đó là thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ. Những quả này bắt đầu bằng sự tái sanh và kết thúc bằng sự chết, có sự già và những điều khổ khác xen vào.
Giáo pháp của Ðức Phật không hấp dẫn những người bình thường, nặng nề những ảo tưởng về hạnh phúc và thực thể của bản ngã. Nhưng tánh chất vô thường và khổ là những sự thực của đời sống không sai chạy vào đâu được và đời sống trong cõi chư thiên cũng thế thôi. Một số chư thiên địa cầu phải phấn đấu vất vả để sinh tồn và còn khổ hơn loài người. Họ được gọi là chư thiên đọa xứ (vinipàtika) và họ bao gồm Dạ xoa, thần, v.v... thuộc chư thiên hạ giới. Một số chư thiên ở các cõi trời cũng không được hạnh phúc vì họ không có chỗ trú ngụ tốt và thiếu người hầu. Ngay cả Ðế thích, vua của chư thiên, cũng đã thú nhận với trưởng lão Ma Ha Ca Diếp rằng vị ấy không được chói sáng nhiều lắm, vì vị ấy được sanh vào cõi chư thiên do thiện nghiệp mà vị ấy làm đã lâu trước khi có xuất hiện giáo pháp của Ðức Phật, và vị ấy phải biến mất khi gặp các vị chư thiên chói sáng hơn, vì những vị chư thiên ấy đã làm thiện nghiệp trong thời Ðức Phật.
Như vậy, Sakka cũng không phải hoàn toàn được hạnh phúc và tùy tùng của vị ấy cũng vậy. Họ kể lại với trưởng lão Ma Ha Ca Diếp rằng họ khốn khổ vì họ có ít giá trị so với những tiên nữ làm hoàng hậu, có địa vị cao. Một số chư thiên trở nên khốn khổ khi cái chết đã gần kề với những điềm báo như: Hoa trang sức trên người họ bị héo úa, mồ hôi chảy ra từ nách và những tướng lão hoại khác. Một số chư thiên chết đột ngột trong khi đang chìm đắm trong dục lạc, giống y như người chết bởi một nhát dao bén. Cái chết có thể xảy ra trong chớp nhoáng, như trong câu chuyện Subrahma Deva sau đây.

CHUYỆN PHẠM THIÊN SUBRAHMA

Subrahma Deva đang sống trong hạnh phúc khi những tùy tùng, những tiên nữ của vị ấy đang ca hát và hái hoa trên cây, họ chết đột ngột và tái sanh vào địa ngục. Subrahma Deva thấy họ đang chịu khổ trong địa ngục và đồng thời vị ấy cũng thấy trước rằng trong vài ngày nữa vị ấy cũng sẽ chết và chịu chung số phận với những tùy tùng của mình. Ðầy kinh hãi, vị ấy đi đến Ðức Phật và hỏi Ngài xem có chỗ nào mà vị ấy sống không sợ hãi. Khi thấy Ðức Thế Tôn trả lời rằng Ngài không thấy con đường nào giải thoát cho chúng sanh ngoài sự thực hành các pháp giác chi, pháp Ðầu đà (dhutanga) và Tứ chánh cần. Chỉ có những pháp ấy mới có thể đoạn trừ các phiền não. Pháp thu thúc lục căn là pháp ngăn chặn phiền não và Niết-bàn là pháp xuất ly tất cả.
Nghe qua những điều này, vị chư thiên cùng với tùy tùng của vị ấy đều chứng đắc tầng thánh Nhập lưu. Ðiều chúng ta cần lưu ý ở đây là cái chết đột ngột của những vị tiên nữ. Số phận của những kẻ chết thình lình như vậy trong khi đang vui hưởng dục lạc quả thật khủng khiếp, vì họ rất có thể tái sanh địa ngục do kết quả của các bất thiện nghiệp. nếu có điềm báo cái chết sẽ đến, thì nó sẽ tạo ra sợ hãi và làm cho cái khổ tăng thêm.
Khổ bắt nguồn từ sự luyến ái khoái lạc không chỉ giới hạn trong cõi dục. Bởi vì các vị chư thiên hữu sắc hay vô sắc cũng khổ. Ở cõi phạm thiên không có khoái lạc về giới tính hay bất cứ dục lạc nào khác. Những vị phạm thiên chỉ thấy, nghe hoặc suy nghĩ và những cảnh thấy, v.v... của họ không hàm chứa dục tình. Nhưng theo bộ Visuddhimagga thì có một số người khởi lên nỗi khao khát những dục lạc ở cõi phạm thiên, vì qua sự đồn đãi hoặc suy luận, họ tin rằng những dục lạc như vậy tối thắng hơn những dục lạc ở cõi người và cõi chư thiên. Ðó chẳng qua là ái dục dẫn đến sự chứng đắc thiền hữu sắc, vô sắc và cuối cùng đưa họ tái sanh vào các cõi hữu sắc hoặc vô sắc.
Chẳng lạ lùng gì khi có một số người nghĩ hoặc nói về dục lạc ở cõi Phạm thiên. Những người hiểu rõ giáo pháp của Ðức Phật sẽ phủ nhận quan niệm ấy, nhưng có lẽ nó hấp dẫn những kẻ ngu si, dốt nát. Những bộ sách về tôn giáo của người Ấn Ðộ có vẽ chân dung Phạm thiên và vợ của ông ta, ngay cả Niết-bàn như là một cõi chư thiên với những thiên cung mà chúng ta có thể sống với gia đình và người hầu của chúng ta.

DỤC THỦ CÓ NGHĨA LÀ TẤT CẢ NHỮNG LOẠI ÁI DỤC MÃNH LIỆT

Dục thủ (kàmupàdàna) ở đây không chỉ có nghĩa là sự khao khát mãnh liệt đối với dục lạc. Nó cũng có nghĩa là những hình thức phát triển của ái dục đối với cõi sắc và vô sắc. Do đó theo bộ Thanh tịnh đạo thì vị hành giả có thể đoạn trừ loại ái dục thái quá này chỉ ở giai đoạn thánh đạo cuối cùng và chính ái dục này nằm ở căn cội của mọi cố gắng để chứng đắc thiền hữu sắc hoặc vô sắc. Ðối với người bình thường, thiền như vậy có nghĩa là sự tạo nghiệp hữu sắc hoặc vô sắc, do duyên của ái dục và nghiệp này dẫn đến tái sanh ở cõi phạm thiên hữu sắc hoặc vô sắc. Từ lúc tái sanh, có sanh khởi sự già lão không ngừng của danh sắc. Sự già lão của vị Phạm thiên không rõ nét như sự già lão của con người, nhưng nó cũng dẫn đến sự biến hoại và khi sức sống cạn hết, vị phạm thiên ấy cũng không thể tránh khỏi cái chết.
Vì không có sân, nên đời sống của vị Phạm thiên không bị ưu sầu, lo lắng v.v... và sự cảm xúc về thân không có nơi vị Phạm thiên nên vị ấy không bị khổ thân. Tuy nhiên, vị ấy vẫn không thể thoát khỏi sự sanh, già và chết, là những trạng thái vốn có ở mọi kiếp sống.
Như vậy, sự tránh khỏi già và chết có nghĩa là sự đoạn trừ khả năng tái sanh. Ðể tránh khỏi sự tái sanh, chúng ta tìm cách tránh thoát thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, và sự phủ nhận nghiệp hữu đòi hỏi phải phủ nhận ái và thủ. Vì mục đích này, quá trình tâm phải dừng lại ở thọ không cho khởi sanh tham muốn với bất cứ cái gì. Sự đoạn trừ tham ái qua pháp quán vô thường, khổ và vô ngã của các pháp sanh lên từ các căn là phương pháp duy nhất để đoạn trừ ái dục, tái sanh và những nhân khác trong chuỗi nhân quả. Ðây là sự chấm dứt khổ tạm thời, sự chấm dứt vĩnh viễn chỉ xảy ra khi hành giả bước vào thánh đạo.

KIẾN THỦ LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ TÁI SANH

Kiến thủ là sự bám chắc theo loại tà kiến phủ nhận nghiệp và kiếp sống tương lai. Do đó đoạn kiến nhấn mạnh sự đoạn diệt sau khi chết, đó là một loại kiến thủ. Người chấp theo tà kiến như vậy sẽ không làm việc thiện cũng không tránh điều ác. Người ấy chẳng cần làm gì cho hạnh phúc của kiếp sống sau, mà chỉ lo hưởng thụ càng nhiều càng tốt, bằng bất cứ phương tiện nào. Vì người ấy không quan tâm đến đạo đức nhân quả, nên phần lớn hành động của anh ta thường là bất thiện, để rồi tạo ra những ấn tướng lúc lâm chung và dẫn anh ta tái sanh vào khổ cảnh. Ðiều này thấy rõ trong câu chuyện ngạ quỉ Nandaka.
Nandaka là một vị quan trong thời của đức vua Piígala nước surattha, là một vương quốc nằm ở phía bắc tỉnh Bombay, thuộc tây Ấn Ðộ hiện nay. Vị ấy chấp theo tà kiến, tức là cho rằng bố thí không có lợi ích gì v.v... Sau khi chết, ông ta tái sanh làm một Peta (quỉ) ở trong cây Ban-yan (cây đa), nhưng khi con gái của ông ta cúng dường vật thực đến một vị Tỳ khưu và hồi hướng phước báu cho ông ta, thì ông ta có được đồ ăn và thức uống của chư thiên một cách dồi dào, bất tận. Khi ấy ông ta mới công nhận có nghiệp và ân hận cho ý nghĩ điên rồ trong kiếp trước của ông ta. Một hôm vị phi nhân Nandaka dùng thần lực dẫn vua Piígalađi đến chỗ ngụ của ông ta và tiếp đãi đức vua cùng tùy tùng bằng đồ ăn và thức uống của chư thiên. Ðức vua vô cùng kinh ngạc và để làm thỏa mãn tánh tò mò của đức vua, vị phi nhân kể lại về sự tái sanh đọa xứ của mình như là quả nghiệp của sự chấp thủ tà kiến của vị ấy, tánh phi đạo đức và sự chống đối việc bố thí; Vị ấy cũng kể lại sự thay đổi số phận đột ngột của mình do sự hồi hướng phước báu của đứa con gái. Ðoạn vị ấy buồn rầu kể về cái khổ kinh khủng ở địa ngục mà vị ấy sắp phải lãnh chịu sau khi chết, và địa ngục ấy dành cho những người chấp theo tà kiến và phỉ báng thánh tăng trong khi còn ở trên dương thế.
Chú giải cũng nói rằng: Sự chấp theo đoạn kiến có thể dẫn đến cõi chư thiên hoặc phạm thiên nếu đoạn kiến ấy xảy ra ở cõi trên, nhưng các vị chư thiên và phạm thiên rõ ràng không hề tin vào sự đoạn diệt của họ sau khi chết. Nói chung, đoạn kiến khiến người ta thiên về những ác nghiệp.
Những hành động tạo nghiệp cũng có thể do thường kiến làm động cơ thúc đẩy. Tà kiến này tạo ra ảo tưởng về thực thể của con người, cho rằng chính cái ngã thường tồn sẽ thọ lãnh những thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp trong kiếp sống tương lai. Bởi vậy, người có tà kiến này chuyên tâm làm những việc mà họ cho là thiện. Thực ra một số hành động có thể là ác, nhưng nghiệp của người ấy dầu là thiện hay bất thiện mà sanh lên từ thường kiến, thì cũng dẫn đến tái sanh và đau khổ.
Lại nữa, một động cơ chính khác của hành động tạo nghiệp là sự mê tín. Có nhiều hình thức mê tín, ví dụ: Cho rằng gặp người ăn xin sẽ đem lại xui xẻo, ong làm tổ trong nhà sẽ đem lại sự nghèo khổ. Do ảnh hưởng của những niềm tin như vậy, người ta có thể làm điều ác, như cư xử thô bạo với người ăn xin, hoặc giết chết những con ong. Câu chuyện Cittasambhùta jàtaka sau đây sẽ chứng minh điều ấy.
Trong chuyện bổn sanh này, Bồ tát có tên là Citta thuộc giai cấp cùng khổ Chiên đà la. Bấy giờ, A-nan-đà là em bà con của Bồ tát, tên là Sambhùta. Họ kiếm sống bằng nghề nhảy múa. Một hôm đứa con gái của một vị thương nhân và người con gái của một vị quí tộc Bà la môn đang trên đường ngoạn cảnh với tùy tùng của họ. Khi trông thấy hai cậu con trai kia, họ cho đó là điềm xấu, bèn quay về nhà. Tùy tùng của họ lấy làm tức giận và đánh xối xả vào hai đứa bé Chiên đà la, vì chúng là nguyên nhân khiến cuộc vui chơi của họ bị hủy bỏ.
Hai cậu bé lên đường đi đến Takkasila và cải trang làm hai chành trai Bà la môn, họ chuyên tâm vào việc học tập. Citta được cử làm lớp trưởng do tư chất thông minh của vị ấy. Một hôm, ông thầy gọi họ đến một nơi khác để học cách tụng kinh Phệ đà. Ở đó, Sambhùta vô ý uống nhầm sửa còn nóng, nên buộc miệng nói tiếng địa phương: "Khalu, khalu" và Citta cũng quên mình mà thốt ra rằng: "Niggala, niggala" (nhổ ra, nhổ ra). Những câu này đã để lộ thân phận của họ, khiến các môn sinh nhận ra họ là người Chiên đà la. Hai chàng trai bị đánh đập và bị đuổi ra khỏi trường.
Theo lời khuyên của ông thầy, họ xuất gia làm đạo sĩ. Sau khi mạng chung, họ sanh làm chim, và khi sanh lại làm người, Citta là con của vị Tư tế quan và nhớ lại ba kiếp quá khứ của mình. Vị ấy xuất gia làm đạo sĩ, đắc thiền và các pháp thần thông. Sambhùta làm vua, vị ấy nhớ lại kiếp sống sanh làm người Chiên đà la.
Do năng lực thần thông, Citta biết người em của mình vẫn còn say mê trong khoái lạc của vị đế vương và sau khi chờ đợi đến năm chục năm, vị ấy đi đến khu vườn của đức vua. Ðức vua nhận ra đạo sĩ là anh của mình trong kiếp quá khứ và mời đạo sĩ chung hưởng khoái lạc vương giả. Nhưng vì biết rõ kết quả của nghiệp thiện và bất thiện, Bồ tát nguyện với chính mình là sống cuộc đời tự chế, xuất ly và xả bỏ. Vị ấy nhắc vua nhớ lại những thời kỳ sống chung với nhau trong những kiếp quá khứ. Ðó là kiếp sanh làm Chiên đà la, làm chim và làm nai. Mục đích của vị ấy là chỉ cho thấy kiếp sống bấp bênh, không định hướng và khuyên đức vua hãy xuất gia làm đạo sĩ để phát triển đời sống tâm linh. Nhưng thật khó để đức vua từ bỏ dục lạc. Bởi vậy, Bồ tát quay về Hi mã lạp sơn. Về sau, đức vua thấy được tính chất tạm bợ của dục lạc và đi vào Hi mã lạp sơn, xuất gia làm đạo sĩ. Ở đó, vị ấy chuyên tâm hành thiền và đắc định cùng các pháp thần thông.

MÊ TÍN VÀ ÁC SANH

Ðiều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở trong câu chuyện này là những ác nghiệp khởi sanh từ sự mê tín. Vai trò của mê tín là nguyên nhân của những ác nghiệp được thấy rõ trong câu chuyện người thợ săn Koka.
Trong thời Ðức Phật, có một người thợ săn tên là Koka, ở tại một ngôi làng nọ. Một hôm ông ta dẫn những con chó đi vào rừng săn thú. Trên đường đi, ông ta gặp một vị Tỳ khưu đang đi khất thực. Người thợ săn cho rằng đây là điềm xấu. Trùng hợp thay, ngày hôm ấy ông ta chẳng săn được con thú nào cả. Trên đường về, ông ta lại gặp vị Tỳ khưu. Ðầy giận dữ và ác ý, ông ta thả chó tấn công vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu bỏ chạy và leo lên một nhánh cây nọ. Người thợ săn bắn một mũi tên vào bàn chân của vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu đau đớn quằn quại trên nhánh cây và chiếc y của vị ấy rơi xuống, trùm lấy người thợ săn. Những con chó tưởng đó là vị Tỳ khưu, bèn xông đến cắn xé ông ta. Kết quả là người thợ săn bị những con chó của ông ta cắn chết. Sau khi nhận ra rằng chúng đã giết chết chủ của mình, những con chó bỏ chạy.
Vị Tỳ khưu trở về bạch lại vấn đề với Bậc Ðạo Sư. Nhân đó, Thế Tôn nói rằng:
"Kẻ ngu hại người không hề làm khổ kẻ khác. Hắn hại người đã thoát khỏi phiền não, nhưng ác nghiệp của hắn đã dội lại trên chính hắn, như đám bụi bay ngược trở lại người tung ngược chiều gió".
Ở đây, cái chết thê thảm của tên thợ săn, sự tái sanh vào khổ cảnh của hắn và đau khổ do ác nghiệp mà chính hắn tạo ra đều xuất phát từ mê tín. Một số người lấy làm lo sợ khi nghe nhà chiêm tinh nói về vị trí những ngôi sao báo trước vận xấu của họ. Bởi vậy, họ dâng cúng hoa và đèn đến tượng Phật, bố thí đến chư Tăng, nghe Pháp và hành thiền. Một số người thỉnh chư Tăng về nhà tụng kinh an lành để ngăn ngừa rủi ro và tai họa mà họ tin sẽ đến vì những cảnh mộng mà họ thấy. Thiện nghiệp của họ dẫn đến thiện sanh, nhưng giống như những sự tái sanh khác do ác nghiệp, nó cũng đầy đau khổ.
Một số người thiếu trí làm điều ác để mong xua tan những rủi ro có thể xảy đến với họ. Những câu chuyện bổn sanh có nêu ra việc giết thú để cúng tế, bao gồm việc giết bốn con dê, bốn ngựa, bốn người v.v... Hình thức giết thú tế thần này, chúng ta sẽ được biết qua câu chuyện về vua Kosala trong thời Ðức Phật.
Vua Kosala say mê một người đàn bà đã có chồng. Bởi vậy, vua cho gọi người chồng đến và giao cho anh ta một công việc ở xa. Nếu người chồng kia không làm xong công việc và trở về trước khi mặt trời lặn thì sẽ bị trừng phạt.
Người kia làm theo lệnh của đức vua và trở về trước khi mặt trời lặn, nhưng cổng thành đã đóng lại và vì không thể đi vào thành phố được, anh ta đành tá túc qua đêm ở Kỳ Viên tịnh xá.
Bị đốt cháy bởi dục tình và tham ái, đức vua trằn trọc và không thể chợp mắt trong đêm ấy được. Vị ấy nghe giọng nói của bốn người đang chịu khổ trong địa ngục vạc dầu vì tội tà dâm trong kiếp quá khứ của họ. Có lẽ do nguyện lực và năng lực thần thông của Ðức Phật khiến cho vua nghe được những giọng nói này phát ra từ địa ngục. Ðức vua lấy làm kinh hãi và sáng sớm hôm đó cho vời vị Tư tế quan đến giải mộng. Vị Tư tế quan nói rằng những giọng nói ấy báo hiệu những rủi ro sắp xảy đến, và để ngăn chặn nó, đức vua phải tế voi, ngựa v.v... mỗi thứ một trăm.
Ðức vua sai sửa soạn đầy đủ mọi thứ để tế lễ. Ôi độc ác thay! Chỉ vì cứu mạng một người mà phải giết chết hằng ngàn mạng sống. Trong sốù những nạn nhân sắp bị giết, có cả con người, và khi nghe những tiếng kêu la thảm thiết của họ, hoàng hậu Mallikà đi đến đức vua và bảo vị ấy đến yết kiến Ðức Phật.
Ðức Phật khẳng định với đức vua rằng những tiếng nói ấy chẳng liên quan gì đến vị ấy cả. Ðó là giọng nói của bốn chàng trai mà vào thời kỳ Ðức Phật Ca Diếp, đã đi dụ dỗ nhưng người đàn bà đã có chồng, bây giờ đang bị nấu sôi trong địa ngục vạc dầu. Họ đang hối hận và bày tỏ ước muốn được làm điều thiện sau khi thoát khỏi địa ngục. Ðức vua vô cùng sợ hãi và nguyện sẽ không bao giờ nhòm ngó vợ của người khác. Vị ấy bạch với Ðức Phật rằng đêm hôm trước ấy quả thật dài, vì suốt đêm vị ấy không thể ngủ được. Nhân đó Ðức Phật thốt lên câu kệ:
Sau khi nghe câu kệ này, nhiều người chứng đắc quả thánh Dự lưu và các tầng thánh khác. Ðức vua truyền lệnh phóng thích tất cả những chúng sanh sắp tế thần. Nếu không có lời khuyên của Ðức Phật thì chắc chắn vị ấy đã tạo nhiều ác nghiệp và câu chuyện này cho thấy sự mê tín dẫn đến ác nghiệp như thế nào.

CUỒNG TÍN

Thiện nghiệp hay ác nghiệp cũng xuất phát từ những loại cuồng tín. Nói chung, ai cũng cho rằng tôn giáo của mình là chánh giáo, còn những tôn giáo khác là tà giáo, ngoại đạo. Bởi vậy, họ ra sức truyền bá tôn giáo của họ, dùng sức mạnh để thâu phục kẻ khác hoặc khủng bố hay đối xử tàn bạo với những kẻ không chịu tin theo tín ngưỡng của họ. Tất cả những điều ác này xuất phát từ sự cuồng tín.
Lại nữa, những hành động tạo nghiệp cũng có thể xuất phát từ sự chấp thủ, vào hệ tư tưởng hay quan điểm về những vấn đề trong thế gian. Một số người dùng quyền lực để bắt ép ngưới khác phải chấp nhận tín điều của mình. Họ tuyên truyền nó bằng nhiều cách. Mặt khác, họ nói xấu, xuyên tạc hay phá hoại sự đoàn kết của những người không chịu tin theo họ. Tất cả những hành vi này tạo thành nghiệp hữu, mà nguyên nhân của nó là thủ.
Tóm lại, tất cả những sự cố chấp vào các lối thực hành và niềm tin ngoài ngã ngữ thủ đều là kiến thủ và sẽ dẫn đến các hành động tạo nghiệp.

GIỚI CẤM THỦ

Một số người tin rằng họ có thể đạt được giải thoát qua một số pháp hành nào đó mà không liên quan gì đến Tứ diệu đế. Niềm tin như vậy được gọi là giới cấm thủ. Có nhiều phương diện của giới cấm thủ, như thờ cúng loài vật, tổ chức hình thức cúng tế với hy vọng đạt đến chỗ giải thoát.
Theo bộ Thanh tịnh đạo, một số người tin vào những lối thực hành này, cho đó là con đường giải thoát, để rồi tạo các nghiệp dẫn đến cõi người, trời, cõi phạm thiên hữu sắc và vô sắc.
Bộ Thanh tịnh đạo chỉ nói về những nghiệp dẫn đến cõi người và những cõi khác cao hơn mà thôi. Nó không đề cập những nghiệp dẫn đến khổ cảnh. Sở dĩ chú giải không đề cập đến các ác nghiệp sanh lên từ giới cấm thủ, vì điều ấy quả rõ ràng. Theo Cẩu hành giả kinh và những bài kinh khác, thì người ta sẽ tái sanh làm bò hay chó nếu người ấy sống hoàn toàn giống những con vật ấy về hành vi, lời nói và ý nghĩ; Hoặc người ấy tái sanh vào địa ngục hoặc cõi súc sanh nếu người ấy theo tà kiến nhưng không thực hành đầy đủ. Khỏi cần nói, chúng ta cũng biết rằng sự giết thú để tế thần linh là do bởi những loại thủ này, sẽ dẫn đến khổ cảnh. Những tà nghiệp khác xuất phát từ thủ mà có liên quan đến các hình thức cúng tế và nghi lễ cũng có kết quả như vậy.
Tóm lại, mọi niềm tin vào tính hiệu năng của một lối thực hành nào đó như là phương pháp diệt trừ phiền não đều là giới cấm thủ. Theo những cuốn chú giải về bộ Thanh tịnh đạo, thì sự chấp vào giới thông thường hay các tầng thiền hợp thế mà cho là con đường giải thoát thì được gọi là giới cấm thủ. Các tầng thiền vô sắc mà Alàra và Udaka chứng được đều xuất phát từ loại thủ này và những việc làm của nhiều người, dựa vào niềm tin thượng đế, cũng thuộc loại thủ này. Tất cả những loại thủ này đều dẫn đến tái sanh và khổ.

NGÃ NGỮ THỦ 

Loại thủ cuối cùng là ngã ngữ thủ. Ðó là sự tin tưởng sâu đậm vào thực thể của bản ngã, cho rằng bản ngã thường tồn là chủ nhân của mọi hành vi, lời nói và ý nghĩ.
Một ít người thoát khỏi loại thủ này. Người bình thường tin rằng: Chính "ta" thấy, nghe, cử động,v.v... Ảo tưởng về thực thể của bản ngã là động cơ chính của tự ái và sự lo âu về hạnh phúc của cái ta. Tánh bao quát và quyền tuyệt đối của sự ái ngã được nhấn mạnh trong câu trả lời của hoàng hậu Mallikà với vua Kosala.
Mallikà là con gái của người thợ kết tràng hoa. Một hôm nàng gặp Ðức Phật trên đường đi và dâng vật thực đến Ngài. Sau khi thọ thực xong, Ðức Thế Tôn bảo với A-nan-đà rằng nàng sẽ trở thành hoàng hậu của vua Kosala trong chính ngày hôm ấy. Ðức vua bị thua trận và cưỡi ngựa trốn chạy. Ðầy mệt lả. Ðức vua vào nghỉ trong vườn hoa, ở đó vị ấy được Mallikà tiếp đãi và chăm sóc. Ðầy hoan hỷ, đức vua dẫn nàng về hoàng cung và đưa nàng lên ngôi chánh hậu. Lời tiên tri của Ðức Phật đã thành hiện thực, do bởi thiện nghiệp mới và thiện nghiệp trong kiếp quá khứ của nàng.
Nhưng Mallikà không đẹp bằng những nàng thứ phi khác. Hơn nữa, là một thiếu nữ sanh ra từ gia đình nghèo, nàng cảm thấy lúng túng trước các quan thần. Bởi vậy để khích lệ nàng, đức vua hỏi nàng thương ai nhất. Câu trả lời mà vị ấy mong chờ là: "Tâu bệ hạ, thiếp thương bệ hạ nhất". Sau đó, vị ấy sẽ nói với nàng rằng vị ấy cũng yêu nàng hơn bất cứ ai khác, và theo suy nghĩ của vua, sự xác định tình yêu của vị ấy sẽ làm gia tăng sự thân thiết, gắn bó của họ và khiến nàng sống ở hoàng cung tự nhiên hơn.
Tuy nhiên, là một người đàn bà thông minh, đầy tự tin, nàng thẳng thắn trả lời rằng không có ai mà nàng yêu nhiều hơn chính nàng. Ðức vua phải công nhận rằng vị ấy cũng thương mình nhiều hơn bất cứ ai khác. Rồi đức vua đem những câu đối thoại này bạch với Ðức Phật. Nhân đó Thế Tôn nói rằng: "Không ai trong thế gian này thương người khác hơn chính mình. Mọi người đều thương mình nhiều nhất. Bởi vậy, mọi người nên có lòng từ và đừng xử tệ với người khác".
Trong Phật ngôn này, chữ "ta, mình", tiếng Pàli là Atta, nó không có nghĩa là ngã trong ngã kiến. Nó chỉ về cái ta trong ý nghĩa thường tình và tiếng ta mà con người dùng để phân biệt mình với người khác mà thôi. Nhưng ngã kiến cũng là nguồn gốc của tự ái. Ngã kiến càng mạnh thì tự ái càng nhiều.
Chúng ta không thương người khác nhiều hơn chính mình. Một người thương vợ hoặc chồng hay con cái chỉ như là người bạn đời, người hầu hay người bảo hộ mà thôi. Tình thương của cha hay mẹ không thực sự nhiều hơn tình yêu châu ngọc. Bởi vậy, nếu một người nói rằng tình yêu của người ấy đối với một người nào đó lớn hơn tình yêu chính mình, thì những lời của người ấy chỉ được tin một phần nhỏ thôi. Khi đứng giữa cái sống và cái chết, ngay cả người mẹ cũng sẽ không quan tâm đến đứa con của mình (điều này rất vi tế, khó nhận ra-ý của dịch giả-).
Một thuở nọ, có một người đàn bà đi chung với một đoàn thương buôn ngang qua sa mạc. Vì nàng ngủ quên nên bị bỏ lại cùng với đứa con. Khi mặt trời lên cao, cát nóng lên và nàng phải đặt cái thúng, rồi đến y phục lót dưới chân. Nhưng sức nóng bốc lên càng lúc càng nhiều đến nỗi không thể chịu được, cuối cùng nàng buộc lòng phải đặt đứa con bên dưới thân của nàng. Do đó, mới có lời nói rằng ngay cả người mẹ cũng có thể hy sinh đứa con đẻ để bảo vệ chính mình.
Do sự ái ngã mà nguồn gốc của nó là ngã kiến, người ta tầm cầu hạnh phúc cho mình và gia đình của mình bằng phương tiện tốt hoặc xấu. Người ấy không do dự làm điều ác, miễn sao được lợi cho mình. Nhưng niềm tin vào cái ta thường tồn cũng dẫn đến các thiện nghiệp. Do niềm tin thúc đẩy mà có một số người thực hành bố thí, trì giới, hành thiền v.v... để được sanh về cõi chư thiên, phạm thiên, nhưng ở đó họ cũng phải chịu sự già, chết và những điều khổ khác của kiếp sống.
Tóm lại, mọi cố gắng để mưu cầu hạnh phúc trong đời hiện tại hoặc đời mai sau đều xuất phát từ ngã kiến. Sự cố gắng tạo nghiệp như vậy khác với sự tạo nghiệp sanh lên từ dục thủ ở chỗ: Hành động trước có động cơ chính là sự chấp thủ vào tính đồng nhất cá thể (cho thân này là ta, là của ta) trong khi hành động sau có động cơ là sự khao khát dục lạc. Tuy nhiên, đối với những người quá chấp chắc vào ngã kiến, thì tính vị kỷ có quan hệ khăng khít với dục tham.
Ðối với những vị thánh nhân đã hoàn toàn thoát khỏi ngã kiến, thì hành động thiện của họ chỉ do dục thủ thúc đẩy. Như vậy, sự bố thí, trì giới, tham thiền của ông Cấp cô độc, bà Visàkhà, Mahànàma và những người khác, trong khi nương vào thánh đạo, có thể xuất phát từ ước muốn được cuộc sống tốt đẹp hơn ở cõi người và cõi chư thiên, hoặc được chứng các tầng thánh cao hơn.

CHUYỆN ÔNG UGGA

Có thể đoán chừng rằng các vị A-na-hàm làm các việc thiện là do ước muốn được hạnh phúc ở cõi phạm thiên hữu sắc và vô sắc, và đạo quả A-la-hán. Dĩ nhiên, chính đạo quả A-la-hán có thể giúp đoạn trừ ái dục. Ước muốn được chứng đắc đạo quả A-la-hán là động cơ thúc đẩy làm các việc thiện trong trường hợp của vị hành giả đã đắc quả A-na-hàm, có thể thấy rõ về câu chuyện vị A-na-hàm Ugga.
Ugga là một vị gia chủ ở thành Vesali. Ðức Phật đã nói về tám đức tánh kỳ diệu của ông Ugga. Ðể đáp lại một sự thắc mắc của một vị Tỳ khưu nọ, Ugga bèn trình bày về tám đức tánh của ông ta như sau:
1/- Khi gặp Ðức Phật lần đầu tiên thì ông ta kết luận chắc chắn rằng đức Gotama là vị Phật có thật, là Ðức Phật toàn tri.
2/- Ông ta giác ngộ Tứ diệu đế qua đạo tuệ A-na-hàm, khi ông ta nghe thời pháp của Ðức Phật. Ông ta thọ trì ngũ giới, bao gồm cả giới không hành dâm.
3/- Ugga có bốn bà vợ. Ông bảo họ rằng ông không còn ưa thích tình dục và cho phép họ trở về nhà với cha mẹ hoặc lấy chồng khác tùy theo ý thích của họ. Theo lời yêu cầu của bà vợ chánh, ông ta sẵn lòng tổ chức đám cưới trước khi gả nàng về cho người đàn ông mà nàng yêu.
4/- Ông quyết định dùng tất cả tài sản của mình để bố thí vật thực đến các vị thánh tăng.
5/- Ông đi đến các vị Tỳ khưu một cách đầy tôn kính.
6/- Ông thành kính lắng nghe các vị Tỳ khưu thuyết pháp, nếu các vị Tỳ khưu không thuyết pháp thì ông thuyết.
7/- Các vị chư thiên đi đến ông ta và nói rằng: " Giáo pháp của Ðức Phật rất hay". Ông đáp lại rằng dầu họ có nói như vậy hay không thì pháp vẫn là pháp. Ông không cảm thấy tự phụ trong cuộc đàm đạo.
8/- Ông thấy mình đã thoát khỏi năm hạ phần kiết sử mà sẽ dẫn đến các cõi dục bậc thấp.
Một hôm, Ugga, vị gia chủ có tám đức tánh này và đã chứng đắc tầng thánh A-na-hàm, đã dâng cúng vật thực và y phục thượng hạng đến Ðức Phật. Thế-tôn bình phẩm tánh chất của pháp bố thí như sau:
"Người bố thí vật mà mình ưa thích hoặc đánh giá cao thì sẽ được cái mà người ấy thích nhất. Người bố thí đến bậc thánh có giới đức cao thượng tức là đang làm việc bố thí mà người bình thường khó làm, và do đó người ấy sẽ được cái thích nhất".
Vài năm sau, Ugga chết và tái sanh vào cõi Phạm thiên Ngũ tịnh cư. Chẳng bao lâu sau, vị ấy đi đến đảnh lễ Ðức Phật. Vị ấy nói rằng vị ấy đã chứng đắc đạo quả A-la-hán, là ước nguyện đích thực của vị ấy khi đó vị ấy dâng cúng nhiều vật thực ưa thích đến Ðức Phật trong kiếp quá khứ của mình. Ðức Phật lại bình phẩm về quả báu của sự bố thí - Ðược cái mà mình quí trọng nhất nếu dâng cúng vật quí trọng, Ðạt được mục đích hiếm có nếu dâng cúng vật hiếm có. Ðạt được kết quả khen ngợi nếu dâng cúng vật được ca ngợi nhiều.
Tánh chất đạo đức trong câu chuyện này là người ta có thể chứng đắc đạo quả A-la-hán, đời sống phạm hạnh tối thượng, như là quả của sự bố thí quí trọng. Sự bố thí của Ugga được thúc dục bởi ước muốn được chứng đạo quả A-la-hán và chính ước muốn này hay dục thủ (kàmupàdàna) hình thành động cơ thúc đẩy của vị ấy. Một số người có thể phản đối việc xem từ dục thủ là đồng nghĩa với ước muốn chứng đắc đạo quả A-la-hán, và thích gọi nó là Kusalachanda (thiện dục), nhưng họ sẽ phải giải thích là nó thuộc loại thủ nào mà làm khởi sanh các thiện nghiệp của bậc thánh như bố thí, trì giới v.v...


(Nguồn: budsas.org)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét